Sư họ Mai tên Trực, quê ở Phước Đường, Long Đàm , là con người anh bà Linh Thái hậu vợ vua Lý Thái Tông . Thuở nhỏ Sư rất thông minh và hiếu học, nghe ở chùa Mật Nghiêm trong bổn quận có vị trưởng lão giỏi về tướng số liền đến nhờ xem. Trưởng lão sem xong bảo: Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là vị thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó giữ.
Cảm ngộ lời đoán này, Sư từ giã cha mẹ đến ấp Tiêu Sơn thọ giáo với Định Hương trưởng lão. Ở đây phục dịch nhiều năm để thâm nghiêm thiền học, Sư thường trì kinh Viên Giác tinh thông pháp tam quán. Một đêm, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng Sư, rửa ruột và trao cho diệu dược. Từ đây những sở tập trong tâm rõ ràng khế hợp, sâu được ngôn ngữ tam muội, giảng kinh thuyết pháp thao thao.
Về sau, Sư tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long, dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tìm đến tham vấn rất đông.
Có vị tăng hỏi:
Phật và Thánh khác nhau thế nào ?
Sư đáp :
Trùng dương cúc ở dưới rào,
Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.
(Ly hạ trùng dương cúc
Ly đầu thục khí oanh).
Tăng thưa :
Cảm tạ thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra.
Sư đáp :
Ngày thì vần trăng chiếu,
Đêm đến ánh trăng soi.
(Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh).
Tăng hỏi :
Đã được thân chỉ của thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào ?
Sư đáp :
Bưng thau nước đầy không chú ý,
Một lúc sẩy chân hối ích gì !
(Bất tận thủy bàn kình mãn khứ,
Nhất tao tha điệt hối hà chi.)
Tăng hỏi :
Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?
Sư đáp:
Rùa mù dùi vách đá,
Trạch qùe trèo núi cao.
(Manh quy xuyên thạch bích,
Bả miết thướng cao sơn).
Tăng hỏi:
Tâm và Pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?
Sư đáp:
Hoa núi mưa sa, thần nữ khóc,
Tre sân gió thổi, Bá Nha đàn.
(Vũ trích nham hoa thần nữ lệ,
Phong sao đình trúc Bá Nha cầm.)
Sư có soạn “Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn”, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo sứ thần sang Trung Hoa dân vua Triết Tông nhà Tống. Vua Triết Tông trao cho các vị cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc xem. Xem song các Ngài tâu vua Tống rằng:
Đây là nhục thân Bồ tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.
Vua Tống liền sắc sao lại một bản, bản chính trả lại cho vua ta. Sứ thần kinh về tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng Sư.
Tháng 9 năm Quảng Hựu thứ VI (1090) đời vua Lý Nhân Tông, Sư không bệnh gọi môn đồ vào dạy:
Trong thân ta đây, xương, lóng, gân mạch… bốn đại hòa hợp, ắt phải có vô thường. Ví như ngôi nhà khi hoại, nóc mái xà ngang đều rơi rớt. Từ biệt các ngươi, hãy nghe ta nói kệ :
Thân như tường bích dĩ đồi thì,
Cử thế thông thông thục bất bi,
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng,
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
Dịch:
Thân như tường vách đã lung lay,
Đau đáu người đời luống xót thay
nếu đạt tâm không không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay.
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch, thọ 92 tuổi, 56 tuổi hạ.
Tác phẩm để lại
- Tán Viên Giác Kinh.
- Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
- Tham Đồ Hiển Quyết, 1 quyển.
- Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Bình chú
Tham khảo
- Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học năm 1990.
- Sách Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ, DL 1999 PL 2543.