Thân thế
Tổ Phước Tường, húy thượng Thanh hạ Chánh, tự Quảng Đạt hiệu Phước Tường, thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán, đời thứ 41. Ngài sinh ngày Rằm, tháng 5 năm Đinh Mão (1867) vào đời vua Tự Đức năm thứ 20, tại tỉnh Phú Yên. Tổ xuất thân là một nhà Nho từng dự thi Hương tại Bình Định.
Cơ duyên tu hành
Năm 1885, tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương. Sau đó, ngài xuất gia với Tổ Hải Nhiểu – Thiên Ân tại chùa Khánh Long (Phú Yên), được Bổn sư gởi đến tham học với các bậc thiền sư thạc đức đương thời ở Phú Yên như Tổ Pháp Hỷ (chùa Từ Quang), Tổ Trí Hải (chùa Thiên Thai Sơn Thạch).
Những đóng góp cho Phật giáo
Trong thời gian Tổ Thiên Ân khai sáng chùa Khánh Long (Trà Long, Ba Ngòi), ngài theo Tổ hành đạo tại Cam Ranh. Sau khi chính thức thừa kế trú trì chùa Khánh Long (Ba Ngòi) thay cho Tổ Thiên Ân, ngài còn khai sáng chùa Phước Long trên bán đảo Cam Ranh – hướng dẫn tín đồ làng chài tu học.
Năm Canh Tuất (1910), ngài được cung thỉnh làm Yết-ma A-xà-lê cho Đại giới đàn Tổ đình Trùng Khánh (Ninh Thuận), do Hòa thượng Thích Chơn Niệm làm Đường đầu truyền giới.
Năm Quý Sửu (1913), ngài mở trường kỳ truyền trao giới pháp tại chùa Kim Long (thôn Phú Hòa, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa).
Năm Đinh Tỵ (1917) ngài được hào lão làng Phương Sài cung thỉnh về trú trì chùa Sắc tứ Hội Phước (Nha Trang).
Đến năm 1920, ngài giao chùa Hội Phước cho đệ tử là HT. Thích Nhơn Hiền kế thừa. Ngài về trú trì tổ đình Thiên Bửu Thượng (thôn Điềm Tịnh), Ninh Hòa. Tại đây nhờ phước duyên của chốn Tổ lâu đời cộng với uy tín, tài đức của ngài đã đem lại thời kỳ thạnh mậu cho tổ đình.
Cuối năm 1921, Tổ Phước Tường cử Thầy Trừng Tương – Nhơn Sanh làm giám tự chùa Phụng Sơn. Hai thầy trò Tổ khai sơn đã lao động tự mình dở miếu, xây chùa. Sau 3 tháng xây dựng, chùa được Tổ an danh là Phụng Sơn.
Cuối năm 1922, HT. Thích Nhơn Sanh được Tổ khai sơn cử chính thức trú trì chùa Phụng Sơn.
Hàng môn đồ đệ tử xuất gia của ngài có gần 50 vị và có nhiều công đức đóng góp cho Phật giáo đầu thế kỷ thứ XX như: HT. Thích Nhơn Tri, tức Bồ-tát Thích Quảng Đức, vị pháp thiêu bảo tồn Phật giáo miền Nam năm 1963; HT. Thích Nhơn Sanh, trưởng tử, cùng Tổ Phước Tường khai sơn chùa Phụng Sơn (Ninh Hòa); HT. Thích Nhơn Sơn, khai sơn chùa Thiền Sơn (Trường Lộc), tu núi, nhập thất, tự thiêu thân năm 1938; HT. Thích Nhơn Nguyện, khai sơn chùa Linh Quang (Diên Khánh), nhập thất, ăn rau, tự thiêu thân năm 1927; HT. Thích Nhơn Duệ, khai sơn chùa Thiên Quang (Diên Khánh), nhập thất rồi thiêu thân năm 1944; HT. Thích Nhơn Thứ, khai sơn tổ đình Sắc tứ Linh Quang, có công đức đem Phật giáo truyền lên vùng cao Đà Lạt sớm nhất; HT. Thích Nhơn Hưng, khai sơn chùa Thanh Sơn, chùa Hòa Vân, chùa Hòa Thành, chùa Khánh Phước, chùa Thanh Hải… (Cam Ranh); HT. Thích Nhơn Trực, khai sơn chùa Từ Vân (Nha Trang), gia trì chẩn tế, vị Tổ đoàn lục cúng hoa đăng (Ninh Hòa); HT. Thích Nhơn Bảo, tức HT. Vĩnh Thọ, khai sơn chùa Pháp Bửu Đường (Bình Tuy), trú trì tổ đình Tà Cú, sáng lập cảnh Tịnh độ nhân gian và tượng Phật nhập Niết-bàn tại núi Tà Cú lớn nhất Đông Nam Á; HT. Thích Nhơn Hoằng, khai sơn chùa Hang, Hòn Hèo, viên tịch năm 1947…
Ngoài ra, còn có gần 50 đệ tử xuất gia hành đạo tại Khánh Hòa và các tỉnh trong đầu thế kỷ XX. Vì thế, thời đó, mọi người thường truyền tụng bài kệ nói về nơi chư vị đệ tử của Tổ hành đạo: “Me – Thiên Bảo, Gạo – Khánh Long, Thông – Nhơn Thứ, Sứ – Nhơn Hưng, Vừng – Nhơn Nguyện, Kiến – Nhơn Hoằng…”.
Tổ có quan niệm tiến bộ giữa đạo và đời, xem lao động sản xuất và sự tu hành của người tu sĩ là một, thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. (*)
Viên tịch
Sau hơn nửa thế kỷ hoằng dương Chánh pháp, Tổ Phước Tường đã an tường viên tịch vào ngày 28-7-Nhâm Thân, niên hiệu Bảo Đại thứ bảy, tức ngày 19-8-1932, trụ thế 66 năm. Bảo tháp Tổ Phước Tường 5 tầng tôn trí bên cạnh cổ tháp Tổ Bửu Dương, là ngôi tháp to và cao nhất trong khu vườn tháp tại tổ đình Thiên Bửu (Điềm Tịnh, Ninh Phụng, Ninh Hòa).
Nguồn: Quảng Ấn, Khánh Hòa: Tưởng niệm húy nhật Tổ Phước Tường, 16/9/2020, Báo Giác Ngộ, https://giacngo.vn/khanh-hoa-tuong-niem-huy-nhat-to-phuoc-tuong-post53097.html