Đền Bà Chúa Muối (Thái Thụy, Thái Bình)

Đền Bà Chúa Muối (Thái Thụy, Thái Bình)

Thông tin cơ bản

Tên gọi và vị trí địa lý

Làng Quang Lang, trước đây thuộc huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam Hạ thời Trần, nay là một phần của xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Thụy Hải là xã duy nhất ở Thái Bình vẫn duy trì nghề làm muối truyền thống từ xưa đến nay. Được xem là một trong những làng nghề muối cổ xưa còn tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng, Thụy Hải không chỉ nổi danh với nghề muối mà còn tự hào sở hữu nhiều di sản và di tích đặc biệt hiếm có trong cả nước. Đặc biệt, nơi đây cũng là địa phương duy nhất trong cả nước có đền thờ bà chúa Muối.

Lịch sử và nhân vật

Theo các tư liệu lịch sử và giai thoại truyền miệng ở vùng biển Thái Bình, Đệ Tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh sinh vào năm Canh Thìn (1280), vào một đêm trăng rằm, trong một gia đình có bốn đời truyền nghề làm muối. Cha mẹ bà – ông Nguyễn Văn Minh và bà Tạ Thị Kiều – là những người rất được dân làng Quang Lang yêu mến. Tuy nhiên, cả hai dù đã qua tuổi tứ tuần vẫn chưa có con. Tương truyền rằng, một đêm nọ, khi gió đông thổi nhẹ, trăng lấp lánh dưới đáy nước, bà Kiều mơ thấy mình nuốt được ánh trăng vàng. Sau giấc mơ đó, bà mang thai và đến kỳ mãn nguyệt, sinh hạ một nữ nhi có gương mặt sáng như trăng rằm, mắt lá răm, lông mày lá liễu, môi đỏ như son. Nhớ lại giấc mộng, hai vợ chồng đặt tên con gái là Nguyệt Ảnh, ý chỉ bóng trăng rằm. Ngay từ thuở nhỏ, Nguyệt Ảnh đã bộc lộ tài năng và vẻ đẹp khác thường. Nàng chăm chỉ học hành, thông minh xuất chúng và rất hiếu thảo với cha mẹ. Thấy việc làm muối quá vất vả, nàng thường ra đồng giúp đỡ bố mẹ. Tuy nhiên, mỗi khi nàng ra đồng, mây trắng lại kết thành chiếc lọng khổng lồ che kín ruộng muối, khiến nước biển không thể kết tinh thành muối. Dân làng oán thán vì không có nắng để làm muối, lo lắng cho nghề truyền thống và kế sinh nhai của cư dân địa phương. Những người cao tuổi trong làng đã họp nhau lại và quyết định đóng một chiếc thuyền để nàng mang muối đi buôn nơi khác.

Trong một chuyến buôn, thuyền của nàng đậu ở bến sông gần kinh thành Thăng Long. Vào đúng dịp vua Trần Anh Tông đi kinh lý qua sông, toán quân lính của nhà vua đi qua bến thuyền nơi nàng nghỉ. Khát nước, họ ghé vào xin nước và bỗng thấy từ xa một giai nhân xinh đẹp, nhan sắc như hoa, phong thái dịu dàng khác người. Họ lập tức về tâu với nhà vua. Vua đến nơi, vừa nhìn thấy nàng đã yêu thích, bèn đưa vào cung và phong làm phi.
Xuất thân từ bến nước thuyền tre, thôn nữ Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh được phong làm Đệ Tam phi. Lúc này trong cung có chính cung Bảo Từ Hoàng hậu Trần ThịHuy Tư Hoàng phi Trần Thị, đều là những người xuất thân cao quý. Tuy nhiên, Nguyệt Ảnh, xuất thân bình dân, lại được phong phi mà không trải qua các phân vị thấp hơn, cho thấy bà cực kỳ đắc sủng trong cung.

Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh chỉ đứng sau Bảo Từ Hoàng hậu và Huy Tư Hoàng phi về vinh quang. Ân sủng to lớn, bà nhanh chóng mang thai. Tuy nhiên, không biết vì lý do gì mà thai nhi đã trải qua 9 tháng 10 ngày vẫn không sinh nở được. Nhiều nguồn sử chép rằng: “Hậu cung không ít chuyện thị phi, bà Tam phi chẳng may gặp tai ương, bị kẻ gian hãm hại”. Mong muốn cứu giúp Tam phi và long thai trong bụng, vua Trần Anh Tông đưa bà xuất cung, về quê ngoại dưỡng bệnh. Mỗi chiều, bà ngồi bên cửa sổ nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục đồng hò nhau lấy bồ cỏ làm người nộm vây quanh nhảy múa để bà bớt nỗi buồn.

Nhìn lũ trẻ nhảy múa vui vẻ, bà mỉm cười rồi quy tiên vào ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tuất (1298), long thai cũng theo mẫu thân mà mất. Phủ chủ Quang Lang tức tốc phi ngựa về kinh thành báo tin dữ. Nghe tin Tam phi mất, vua Trần Anh Tông vô cùng thương xót, đã lập đền thờ, truy tôn bà làm phúc thần và tổ chức lễ hội vào ngày 14 tháng 4 âm lịch hàng năm. Vì xuất thân từ làng nghề muối, Tam phi còn được gọi là bà chúa Muối. Lễ hội bà chúa Muối, hay còn gọi là lễ hội ông Đùng bà Đà, là một phần quan trọng trong văn hóa dân gian. Sau này, vua Anh Tông còn ban thêm thụy hiệu, đầy đủ là Từ Ý Thái Hòa Đệ Tam cung phi. Dân làng Quang Lang xót thương tôn thờ làm Bà Chúa Muối, hàng năm mở hội vào ngày hóa của bà, 14 tháng 4 âm lịch hàng năm với tục rước hình nộm gọi là các Đùng (lễ hội còn có tên là hội ông Đùng, bà Đùng (bà Đà).

Những câu chuyện và giai thoại về bà chúa Muối không chỉ là truyền thuyết mà còn gắn liền với lịch sử và văn hóa của làng Quang Lang, nay thuộc xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Đây là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa, minh chứng cho một thời kỳ đầy biến động và huyền bí trong lịch sử Việt Nam.

Kiến trúc cảnh quan

Đền thờ là một công trình kiến trúc đặc biệt, kết hợp giữa đền và chùa, nằm trên mảnh đất Trang Quang Lang. Chùa quay hướng Bắc, thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đền quay hướng Nam, thờ Thánh Mẫu Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt (tức Bà Chúa Muối). Đây là một ngôi đền-chùa tuyệt đẹp, được mô tả trong bia đá năm 1596: “Cổ tích Thái Bình Hưng Quốc tự, bản cổ truyền chi danh lam, bảo Nam bang chi thắng cảnh…”, nghĩa là “Khu đền chùa Thái Bình Hưng Quốc là nơi danh lam cổ truyền, là địa danh thắng cảnh quý báu nhất dưới trời Nam…”

Năm 1963, đền thờ Bà Chúa Muối bị tháo dỡ. Đến năm 1998, một căn nhà nhỏ tạm thời được xây dựng trong khuôn viên chùa Hưng Quốc để thờ phụng Bà. Năm 2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định khôi phục lại đền thờ Bà Chúa Muối tại đúng vị trí xa xưa.

Nhân dịp đại lễ tưởng niệm 705 năm Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn trở thành Thủy Tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử (năm 1308) – người là phụ vương của vua Trần Anh Tông và là bố chồng của Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh (tức Bà Chúa Muối) – Đảng ủy và chính quyền xã Thụy Hải đã long trọng tổ chức lễ khánh thành Đền thờ Bà Chúa Muối, rước bà về đúng nơi mà nhân dân đã phụng thờ từ xa xưa.

Sự kiện và lễ hội

Hàng năm, vào ngày 14 tháng 4 âm lịch, dân làng Quang Lang và khu vực lân cận lại tổ chức lễ hội Bà Chúa Muối, gắn liền với tục rước ông Đùng bà Đà, nhằm tái hiện cảnh Bà Chúa Muối gặp gỡ nhà vua và vui chơi cùng con cháu. Dù bận rộn với công việc đánh bắt hải sản hay đi làm ăn xa, những người con quê hương vẫn thu xếp công việc trở về chăm lo việc làng.
Lễ hội thường kéo dài trong ba ngày với nhiều hoạt động phong phú và đa dạng như: dâng hương, diễu hành rước Chúa, ăn cơm chay, văn nghệ, các trò chơi dân gian, và đặc biệt không thể thiếu lễ rước ông Đùng và phá Đùng.

Trước ngày hội, người dân Quang Lang chuẩn bị cho tục múa ông Đùng bà Đà rất công phu. Họ lấy nia vẽ mặt ông Đùng, bà Đà, làm thân ông bà từ những rọ tre đan sơ sài kiểu mắt cáo, với thân hình cao từ 1,2 đến 1,5m, đường kính phía dưới đủ rộng cho một người chui vào. Ngoài ra, còn có các hình nộm trẻ con, tượng trưng cho con cái của ông Đùng bà Đà. Trên tai của bà Đùng và con gái được đeo hoa mò đỏ, dân làng gọi là hoa ông Đùng. Từ sáng sớm ngày 14 tháng 4, sân đền Bà Chúa Muối đã chật kín hình nộm ông Đùng bà Đà của các thôn để tiến hành các nghi thức, rồi rước chúa đi quanh làng. Đoàn rước gồm hàng nghìn người, đi đầu là kiệu Thánh, kiệu Mẫu, đội múa lân – rồng, trống phách… đi trong âm thanh vui nhộn của các loại nhạc cụ. Xẩm tối, đoàn tiếp tục rước hình nộm ông Đùng bà Đà. Các Đùng cùng nhảy múa trong sân đền. Trong ánh lửa, hình ông Đùng bà Đà nghiêng ngả, chạm vào nhau như bày tỏ tình cảm quyến luyến. Trong các nghi lễ của lễ hội, lễ rước ông Đùng và phá Đùng được người dân đặc biệt yêu thích. Lễ rước ông Đùng và phá Đùng thường diễn ra vào xẩm tối ngày 14/4. Dân làng quây kín trước cửa đền để xem người lớn vào vai ông Đùng, bà Đà, trẻ con đóng Đùng con cùng nhảy múa. Khi múa, các hình nộm nghiêng ngả, quay phải quay trái, tạo cơ hội cho ông bà bày tỏ tình cảm. Đoàn múa rời sân đền đi một vòng quanh làng, các Đùng con quấn quýt xung quanh bố mẹ. Dân làng nhộn nhịp theo sau, vừa đi vừa hát múa. Khi đoàn rước Đùng quay lại sân đền, cũng là lúc phá Đùng. Dân làng vội vã xô vào lấy một nan tre trên hình nộm ông bà. Mọi người ở Quang Lang quan niệm rằng: nếu ai may mắn lấy được nan tre đem về gối đầu giường thì trẻ nhỏ sẽ ngủ ngon, không giật mình, không bị bệnh tật; cắm nan tre vào ruộng, vườn sẽ cho cây sai quả; mang lên thuyền ra khơi sẽ đánh bắt được nhiều tôm cá.

Thụy Hải là nơi duy nhất trong cả nước có phủ và đền thờ Bà Chúa Muối. Trải qua mấy trăm năm, lễ hội ông Đùng bà Đà vẫn giữ nguyên được bản sắc độc đáo vốn có của nó, là một phần không thể thiếu trong văn hóa và lịch sử của vùng đất này.

Tham khảo

“ĐẶC SẢN LỄ HỘI BÀ CHÚA MUỐI – MÚA ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÀ”, Trang Du lịch Thái Bình, ngày 26/05/2020. https://dulichthaibinh.gov.vn/vi/detailnews/?t=dac-san-le-hoi-ba-chua-muoi-mua-ong-dung-ba-da&id=news_752

Chấm điểm

Hình ảnh

Chia sẻ

Một bình luận

  1. Avatar photo
    Thành Hưng

    Bà sinh năm 1280 mất năm 1358 = 78 tuổi ( mà vẫn mang thai hả b)
    mình đang thắc mắc chưa hiểu lắm. Mong đc giải đáp

    1. Cropped Ho So Tac Gia 7.png
      Phùng Ngát

      Cảm ơn bạn rất nhiều vì đã dành thời gian quan tâm và gửi phản hồi về bài viết. Chúng tôi rất vui khi nhận được những đóng góp từ bạn. Ban biên tập sẽ xem xét lại các tài liệu và thông tin liên quan để đảm bảo tính chính xác và cập nhật cho bài viết. Mong rằng bạn sẽ tiếp tục theo dõi và đồng hành cùng chúng tôi trong thời gian tới.
      Trân trọng
      Ban biên tập

    2. Cropped Ho So Tac Gia 7.png
      Phùng Ngát

      Sau khi xem xét lại, ban biên tập nhận thấy có sự nhầm lẫn trong việc ghi năm mất của bà. Theo các nguồn tư liệu, bà mất vào năm Mậu Tuất, có lẽ là năm 1298, khi bà 18 tuổi, chứ không phải năm 1358 như đã nêu trước đó. Chúng tôi đã cập nhật thông tin này để đảm bảo tính logic trong bài viết.
      Trân trọng
      Ban biên tập

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)