Đền Trần (Hưng Hà, Thái Bình)

Đền Trần (Hưng Hà, Thái Bình)

Thông tin cơ bản

Từ các nguồn tư liệu chính thống và di sản văn hóa, thế hệ cư dân Thái Bình luôn tự hào với Long Hưng – Hưng Hà, vùng quê sáng nghiệp, hưng nghiệp và giữ nghiệp của vương triều Trần. Đền thờ và khu lăng mộ các vua Trần ở xã Tiến Đức (Hưng Hà) được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt, và lễ hội tại đây được vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Điều này khẳng định vùng đất Hưng Hà là nơi “chôn nhau, cắt rốn” của những người khai sáng ra triều Trần như Thái sư Trần Thủ Độ, Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung, Trần Thái Tổ, Trần Thái Tông cùng nhiều bậc danh nhân thời Trần và cũng là nơi đặt tôn miếu nhà Trần.

Tên gọi và vị trí địa lý

Trên diện tích 5.175m², đền thờ các vua Trần và Đức thánh Trần Hưng Đạo đã được xây dựng công phu, uy nghi bề thế. Đền nằm trên nền phế tích, tọa lạc giữa trung tâm xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Các hạng mục đã hoàn thành bao gồm tòa hậu cung, tòa bái đường, tả vu, hữu vu, nghi môn, đài hóa vàng, ba ngôi mộ các vua Trần và một số công trình kiến trúc liên quan. Đền Trần cách Hưng Yên 17km, cách thành phố Nam Định 25km, cách Phủ Lý 30km và cách thành phố Thái Bình 30km.

Lịch sử và nhân vật

Tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề đánh cá ở đất Đông Triều. Đến đời Trần Kinh, gia đình chuyển về Tức Mặc (Nam Định) và ông qua đời ở đó. Con trai Trần Kinh là Trần Hấp đã tìm được thế đất thiêng, chuyển mộ của cha về táng tại Mả Sao, hương Thái Đường, phủ Long Hưng (nay thuộc xã Tiến Đức, Hưng Hà) và định cư tại đây. Từ nghề đánh cá, Trần Hấp và con cháu dần chuyển sang làm ruộng và trở nên giàu có, quyền lực, dần bước vào vũ đài chính trị. Đến đời thứ tư, Trần Cảnh được trao ngôi báu từ nhà Lý.

Nhà Trần đã chọn Thái Đường – Long Hưng làm nơi đặt tôn miếu, xây dựng lăng tẩm để an táng các vị vua và hoàng hậu đầu triều cùng nhiều trọng thần trong hoàng tộc. Thái tổ Trần Thừa được táng tại Thọ lăng, Thái Tông táng tại Chiêu lăng, Thánh Tông táng tại Dụ lăng, và Nhân Tông táng tại Đức lăng, đều thuộc đất Thái Đường.

Khi giặc Mông – Nguyên xâm lược Đại Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã cảnh báo rằng nếu để đất nước rơi vào tay giặc thì xã tắc, tôn miếu sẽ bị dày xéo, mồ mả cha mẹ bị bới đào. Lời cảnh báo này đã trở thành hiện thực khi quân Mông – Nguyên chiếm đóng Long Hưng, phá hủy hành cung và các lăng tẩm. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép rằng khi quân Nguyên chiếm Long Hưng, chúng đã khai quật Chiêu lăng (lăng Trần Thái Tông) nhưng không phạm được tới quan tài.

Để bảo toàn phần mộ và đề phòng chiến tranh, hầu hết lăng tẩm các vua Trần từ thời Anh Tông về sau đã được chuyển về Đông Triều. Vùng Thái Đường, nơi đặt tôn miếu nhà Trần, dần trở nên hoang phế. Sau khi chiến thắng giặc, ngôi đền thờ các vua Trần đã được phục dựng, nhưng hành cung và lăng tẩm đã trở thành phế tích. Đáng tiếc, ngôi đền này cũng bị phá hủy khi thực dân Pháp đổ bộ lên đất Thái Bình vào giữa thế kỷ trước. Dân làng Tam Đường còn giữ được một số đồ thờ tự, trong đó có chiếc bài vị ghi: “Thái Tông hoàng đế ngự”.

Sau năm 1954, dấu tích khu mộ táng các vua, hoàng hậu và hoàng tộc nhà Trần còn dễ dàng nhận thấy. Phía trước hành cung theo thế “tiền tam thai” có các nấm phần với tên gọi phần Thính, phần Trung, phần Bụt, phần Cựu, mả Tít. Phía sau hành cung theo thế “hậu thất tinh” có các nấm phần như phần Lợn, phần Ổi, phần Quang, phần Mao, mả Bà Già. Tuy nhiên, sau năm 1954, nhiều ngôi mộ phía sau hành cung nằm xen kẽ trong khu dân cư đã bị hư hại.

Tại thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, nơi đặt hành cung và lăng tẩm, khi đào xuống 30-50cm vẫn thường gặp các hiện vật thời Trần như gạch, ngói, đầu rồng, tượng đất nung và đồ gốm sứ. Qua những lần khai quật và thám sát khảo cổ học, dù chưa có hệ thống, nhưng đã bước đầu hình dung được một số đường đi và vị trí tẩm điện trong hành cung. Di chỉ khảo cổ học Tam Đường đã được xếp hạng di tích quốc gia.

Kiến trúc cảnh quan

Đây là đặc điểm độc đáo duy nhất trong các di tích về thời đại nhà Trần trên cả nước. Các công trình kiến trúc tại đây được bố trí theo trục chính, chia thành các không gian hành lễ, không gian nội tự đền, không gian vườn cây xanh… kế thừa và phát huy kiến trúc đình làng truyền thống.

Tòa hậu cung của Đền Trần có kết cấu chữ đinh, gồm hai tòa tám gian, trên diện tích 359 m², tôn vinh vẻ uy linh của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ tinh vi, sống động.
Tòa Hậu Cung
Chính cung thờ:

  • Linh vị cụ Trần Kinh (Truy tôn Mục tổ Hoàng đế)
  • Linh vị cụ Trần Hấp (Truy tôn Linh tổ Hoàng đế)
  • Linh vị Nguyên Tổ Trần Lý (Truy tôn Nguyên tổ Hoàng đế)
  • Thánh Tượng Thái Tổ Trần Thừa (Truy tôn Thái tổ Hoàng đế).Ông là con trưởng của Trần Lý. Tháng 10 năm Bính Tuất (1226) ông chính thức lên ngôi Thượng Hoàng để củng cố Vương Triều và xây dựng đất nước. Thượng Hoàng băng hà tại cung Phụ Thiên vào năm Giáp Ngọ (1234), tháng Giêng ngày 18. Mộ táng tại Thọ Lăng Thái Đường. Mười hai năm sau khi ông mất, ông được truy tôn là Thái Tổ.

Bên phải thờ Thánh Thượng Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ, một nhân vật kiệt xuất trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước thời Trần. Ông qua đời vào năm Giáp Tý (1264). Hiện có đình thờ và lăng mộ tại xã Liên Hiệp, Hưng Hà.

Bên trái thờ Thánh Thượng Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung. Bà là người con gái tài sắc vẹn toàn, đã dàn xếp mọi bất bình nội tộc để củng cố niềm tin và đoàn kết chống thù trong giặc ngoài, xây dựng vương triều phát triển. Bà mất năm 1259, hiện có đền thờ và lăng mộ tại xã Liên Hiệp, Hưng Hà.

Tòa Đệ Nhị

Chính giữa là ban thờ Thánh tượng vua Trần Thái Tông (Miếu hiệu của Trần Cảnh, 1218 – 1277). Ông là vị vua đầu tiên của triều Trần, là con trưởng của Trần Thừa, được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi năm Ất Dậu (1225), năm Mậu Tý (1258) nhường ngôi làm Thái Thượng Hoàng. Ông băng hà vào ngày 1 tháng 4 năm 1277, thọ 60 tuổi, mộ táng ở Chiêu Lăng – Thái Đường.
Bên trái thờ Thánh tượng vua Trần Thánh Tông (Miếu hiệu của Trần Hoảng, 1240 – 1290). Ông là vua thứ hai của triều Trần, con trưởng của vua Thái Tông. Năm 1258, được vua cha nhường ngôi làm vua 21 năm. Năm Giáp Thân (1284), ông nhường ngôi cho Nhân Tông và làm Thượng Hoàng. Ông băng hà vào ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290), thọ 51 tuổi, mộ táng ở Dụ Lăng – Thái Đường.
Bên phải thờ Thánh tượng vua Trần Nhân Tông (Miếu hiệu của Trần Khâm, 1258 – 1308). Ông là vua thứ ba của triều Trần, con trưởng của vua Thánh Tông. Năm 1293 (Kỷ Tỵ), ông nhường ngôi cho con là Anh Tông và xuất gia. Ông băng hà vào ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) ở Am Ngọa Vân Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh), thọ 51 tuổi. Thi hài được hỏa táng theo phép nhà Phật. Xá lỵ của ông được gửi ở ba nơi: Thái Đường (Long Hưng), Tức Mặc (Nam Định), và Yên Tử (Quảng Ninh).

Tòa Bái Đường

Thờ Ngai và bài vị của hội đồng các quan, tả thờ Văn quan, hữu thờ Võ tướng triều Trần. Ngoài ra, trong quần thể đền thờ các vua Trần còn có Đền thánh thờ Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo và đền thờ Mẫu. Hiện nay, quần thể di tích này đang được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện với tổng diện tích 22 ha. Khu di tích đền thờ và lăng mộ các vua Trần thuộc xã Tiến Đức (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa và di tích khảo cổ học cấp quốc gia. Đây không chỉ là nơi thu hút các nhà nghiên cứu sử học và văn hóa, mà còn là một điểm du lịch có giá trị đặc biệt.

Sự kiện và lễ hội

Lễ hội Đền Trần Thái Bình diễn ra từ ngày 13 đến 18 tháng Giêng m lịch hàng năm để tôn vinh công lao dựng nước của nhà Trần trong lịch sử đất nước. Lễ hội này có nhiều hoạt động rước lễ và vui chơi thú vị.
Một phần lễ nổi tiếng là lễ rước nước, lễ giao chạ, lễ tế mở cửa đền, lễ bái yết và tế mộ. Lễ rước nước được tổ chức trước khi khai hội Đền Trần diễn ra. Nước được lấy từ ngã ba tam tỉnh, nơi ba dòng sông Luộc, Hồng và Thái Bình hội nguồn rồi chảy về biển, thể hiện sự gắn bó của người dân Thái Bình với sông nước. Các vị tổ tiên nhà Trần thường có tên gắn liền với loài cá như Trần Kinh (cá kình), Trần Hấp (cá trăm), Trần Lý (cá chép), Trần Thừa (cá nheo) và Trần Thị Dung (cá ngừ).

Ngoài các lễ trọng đại, phần hội tại Đền Trần Thái Bình còn đầy sôi động với nhiều trò chơi dân gian truyền thống có nguồn gốc từ thời kỳ Trần như thi cỗ cá, rước nước, đấu gậy, thi pháo đất, thả diều, nấu cơm cần, trình diễn thư pháp… Các nghi lễ như giao chạ giữa hai làng Tam Đường – Vân Đài và nhiều nghi thức khác đã được duy trì và phát triển mạnh mẽ. Điều đặc biệt và đáng trân trọng hơn cả là những nghi lễ cổ xưa, là di sản văn hóa từ thời Trần tại lễ hội Đền Trần. Những giá trị này không chỉ làm sáng tỏ niềm tự hào của miền quê từng là trung tâm vương triều mà còn là nơi lưu giữ và tôn vinh tinh hoa của triều đại Trần.

Xếp hạng

Vào ngày 27/01/2014, lễ hội Đền Trần Thái Bình đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia, là một biểu hiện văn hóa đáng giá để bảo tồn và thu hút du khách, đồng thời thể hiện tinh thần biết ơn của con cháu đối với nguồn gốc lịch sử từ xưa. Khu Lăng mộ và Đền thờ các vị vua triều Trần đã được nhà nước xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ công nhận theo Quyết định số 2408- QĐ/TTg ngày 31/12/2014

Tham khảo

  1. http://v1.dentranthaibinh.com/lược-sử-tóm-tắt-về-khu-di-tích-lịch-sử-đền-thờ-các-vua-trần-ở-thái-bình.html
Chấm điểm

Hình ảnh

Chia sẻ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)