Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 – 1190)

Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 – 1190)

Thông tin cơ bản

Giới thiệu


Thiền sư Quảng Nghiêm (1121-1190) là người làng Đan Phượng, họ Nguyễn, đắc pháp với thiền sư Trí Thiền. Sư thuộc dòng Vô Ngôn Thông đời thứ 11. Cha mẹ mất sớm nên Người theo cậu là Bảo Nhạc, sau khi cậu mất, sư hành cước phương xa và gặp được thiền sư Trí Thiền đang khai đàn giảng pháp, Ngài thọ học và đắc pháp với thiền sư Trí Thiền. Sau khi đắc pháp, Ngài hành đạo theo ý chỉ của thiền tông. Ngày rằm tháng hai năm Canh Tuất (1190), Sư chắp tay nói bài kệ và giã biệt mọi người.

Cơ duyên tu tập

Một hôm nhân nghe Trí Thiền giảng Ngữ lục của ngài Tuyết Đậu, đến chỗ Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến nhà người điếu tang đối đáp về vấn đề sanh tử, Sư có sở đắc liền hỏi: Một câu thoại đầu ấy, người xưa nói ở trong sanh tử, lại có lý hay không?

Trí Thiền đáp: Ngươi nhận được lý này chăng?

Hỏi: Thế nào là lý không sanh tử?

Trí Thiền đáp: Chỉ ở trong sanh tử khéo nhận lấy.

Hỏi: Đạt vô sanh rồi.

Trí Thiền đáp: Vậy thì tự liễu.

Ngay câu nói này, Sư càng thấu suốt, lại hỏi: Làm sao bảo nhậm (gìn giữ)?

Trí Thiền đáp: Đã liễu ngộ lại đồng chưa liễu.

Sư sụp xuống lạy.

Từ đây tiếng Sư vang khắp tùng lâm. Trước Sư đến chùa Thánh Ân ở làng Siêu Loại dừng trụ. Binh bộ Thượng thư Phùng Giáng Tường nghe danh kính mộ, thỉnh Sư về trụ trì chùa Tịnh Quả do chính ông lập. Nơi đây Sư xiển dương tông chỉ, thiền giả đến học đều được lợi ích.

Một hôm, đệ tử nhập thất là Thường Chiếu đem kinh Kim Cang hỏi: “Pháp Như Lai đã được, pháp này không thật không hư”, ấy là pháp gì?

đáp: Ngươi chớ hủy báng Như Lai.

Chiếu đáp: Hòa thượng chớ hủy báng kinh.

Sư hỏi: Kinh này là ai nói?

Chiếu đáp: Hòa thượng chớ đùa với con, đâu không phải là Phật nói sao?

Sư hỏi: Nếu là Phật nói, vì sao trong kinh lại nói “nếu nói Như Lai có nói pháp tức là hủy báng Phật”?

Thường Chiếu không đáp được.

Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Pháp thân?

Sư đáp: Pháp thân vốn không tướng.

Lại hỏi: Thế nào là Bát-nhã?

Sư đáp: Bát-nhã không hình.

Lại hỏi: Thế nào là cảnh Tịnh Quả?

Sư đáp: Cây thông, cây thu bên ngôi mộ xưa.

Lại hỏi: Thế nào là người trong cảnh?

Sư đáp: Một mình ngồi bịt miệng bình.

Lại hỏi: Chợt gặp tri âm làm sao tiếp?

Sư đáp: Tùy duyên nhướng đôi mày.

Lại hỏi: Thế nào mới là con cháu Kiến Sơ, là dòng dõi Âu Tông?

Sư đáp: Người ngu nước Sở.

Tăng không đáp được.

Kệ tịch


Đến ngày 15 tháng 2 năm Canh Tuất, nhằm niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ năm (1190), Sư sắp tịch liền nói kệ:

Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt,
Được vô sanh, sau nói vô sanh.
Làm trai có chí xông trời thẳm,
Chớ giẫm Như Lai vết đã qua.

(Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.)

(離寂方言寂滅去,
生無生後說無生。
男兒自有衝天志,
休向如來行處行)

Nói kệ xong, Sư chắp tay vui vẻ thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi. Bằng công làm lễ hỏa táng, dựng tháp thờ.

Bình chú

Bài kệ này tuy có bốn câu, nhưng ý nghĩa thật là tuyệt diệu. “Ly tịch phương ngôn tịch diệc khứ, sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh”. Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt, được vô sanh sau mới nói vô sanh. Hai câu này nói lên cái thật thà của người chân tu, điều mình đã sống được mới nói lên để sách tấn cho người tiến, cái mình chưa được thì không nói, vì lời nói đó là lời nói rỗng không lợi ích. Ngài dạy phải lìa tướng tịch diệt mới bàn câu tịch diệt, nhận được lý vô sanh mới nói về lý vô sanh. Ý này người đời thường dùng ví dụ để nói: ra khỏi cái lu mới diễn tả được cái lu, còn ngồi trong cái lu chỉ tả được phần bên trong của cái lu, chớ không diễn tả được toàn thể cái lu. Cũng vậy, chúng ta khi tu tâm yên lặng, mình còn ở trong trạng thái yên lặng thì không diễn tả được cái yên lặng. Chừng nào chúng ta thật sự yên lặng và thật sự tự tại, không kiềm giữ mà tâm vẫn yên lặng, chừng đó diễn tả mới đúng. Mới vừa yên liền nói tôi yên lặng rồi, nhưng ra gặp cảnh bị chao đảo thì cái yên lặng đó chưa phải yên lặng thật. Chừng nào chúng ta nhận ra thể thanh tịnh, hằng sống với nó trong tịnh cũng như trong động không chao đảo mới thật là yên. Quý vị nhớ kỹ chỗ này. Đừng tưởng lầm ngồi yên chừng năm mười phút là đã yên, liền khoe tâm con thanh tịnh lắm, nhưng khi ra ngoài chạm cảnh thì cũng sân si như ai, đó là tự làm mất uy tín mình. Và, nếu chúng ta sống được với thể vô sanh rồi thì mới nói đến lý vô sanh. Nếu chưa được mà nói thì e không đúng. Hai câu này Ngài dạy người tu phải có thực chứng rồi hãy nói, chưa chứng mà nói là nói rỗng để khoe khoang thì xa rời thực tế, hạnh giải chẳng tương ưng không lợi ích.

“Nam nhi tự hữu xung thiên chí,hưu hướng Như Lai hành xứ hành”. Làm trai có chí xông trời thẳm, chớ dẫm Như Lai vết đã qua. Nam nhi là chỉ cho người có ý chí mạnh mẽ, quyết tâm đi trên đường đạo cho đến cùng, dù là nam hay nữ cũng gọi là nam nhi trượng phu. Còn người có tướng nam mà ý chí nhu nhược lười biến thì không xứng đáng gọi là nam nhi theo nghĩa này. Nam nhi tự có chí xung thiên theo ngôn ngữ Việt Nam gọi là ý chí ngất trời, ý chí ngất trời là sao? Ở thế gian người đi học thì quyết học cho tới nơi tới chốn, gặp khó khăn không bỏ dở, đó là người có ý chí, nhưng còn giới hạn. Hoặc người làm việc lợi ích cho nhiều người  dù gặp khó khăng chướng ngại cũng vượt qua, quyết tâm làm cho đến nơi đến chốn, đó cũng là người có ý chí, nhưng chưa ngất trời. Ý chí ngất trời là ý chí của người vượt ra khỏi tam giới không còn hạn cuộc ở phạm vi nào hết. Song người có ý chí đó “Chớ dẫm Như Lai vết đã qua”. Nghĩa là chớ nhắm lối đi của Như Lai để đi. Câu này ít ai dám dịch. Vì chúng ta tu ai cũng noi theo gương của Phật mà thực hành, đi theo non đường của Phật đã đi. Nhưng ở đây nói không đi theo lối đi của đức Phật, vậy đi đường nào? Đi theo ai? Có nhiều người đọc câu này họ rất e ngại, nếu đi khác đường của Phật đã đi thì đi đường tà sao? Chúng ta phải hiểu cho tường tận ý câu này. Đây là một câu nói có ý nghĩa giáo ngoại biệt truyền. Tại sao? Vì nếu còn nương theo giáo lý của đức Phật dạy trong kinh để tu thì còn có chỗ nương tựa, chưa thoát khỏi tướng văn tự. Theo Ngài, tu là phải vượt ngoài văn tự, gọi là không theo lối Phật đã đi.

Ngài Vân Môn một hôm ở trong chúng đưa cây gậy lên nói :

“Phàm phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích nó là không, Duyên Giác gọi nó là huyễn có, Bồ tát nói đương thể tức không, Thiền gia thấy cây gậy gọi là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến”. Phàm phu mê lầm, thấy cây gậy có hình tướng sờ mó được cho cây gậy là thật có. Hàng Nhị thừa thấy cây gậy liền phân tích : Cây gậy hiện có đây mai kia sẽ cũ, rồi hư mục, hoại mất thành không. Duyên Giác quán sát cây gậy do nhân duyên sanh. Do tứ đại chung hợp mới có cây gậy, cây gậy do duyên hợp mới có, nên không thật, như huyễn như hóa. Bồ tát thấy cây gậy đương thể tức không, nghĩa là thấy cây gậy do duyên hợp mà có nhưng không có tự tánh cố định nên nói đương thể tức không. Đương thể tức không nghĩa là hiện tướng của nó thì tạm có nhưng thể nó là không. Đó là cái nhìn thấu đáo bằng trí tuệ của Bồ tát. Như vậy cái nhìn cây gậy của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều căn cứ vào giáo lý Phật dạy. Còn thiền sư thì thấy cây gậy là cây gậy, không thêm một miệm nào. Đó là cái đặc biệt của Thiền tông. Như trước đã nói hàng Thanh văn nhìn cây gậy dùng trí tuệ quán sát theo giáo lý vô thường của Phật dạy, thấy ngày nay có mai kia bị cũ mục hoại đi và trở thành không. Quán như vậy là người trí là người thức tỉnh. Còn Duyên giác nhìn cây gậy thấy nó hư huyễn là y theo giáo lý quán các pháp như huyễn của Phật dạy. Quán các pháp như huyễn cũng dùng trí tuệ để quán, quán thấy duyên hợp có rồi tan cho nê nói là huyễn hóa. Bồ tát nhìn cây gậy biết đương thể tức không, vì cây gậy có giả tướng do duyên hợp tự nó không có thật thể. Thấy như vậy là dùng trí tuệ quán sát. Do dùng trí tuệ quán sát thấy rõ bản chất của cây gậy nên tâm không dính mắc.

Thiền sư thấy cây gậy là cây gậy không nương vào giáo lý của Phật để quán, như vậy làm sao tu? Dùng trí tuệ quán sát thấy cây gậy là không, là huyễn, là đương thể tức không, khiến hành giả không còn thấy cây gậy là thật để tâm không dính mắc. Đó là tu. Còn thiền sư thấy cây gậy là cây gậy tâm không dấy niệm phân biệt đẹp xấu, thì tâm không thủ xả, cũng không dùng trí quán là không, là huyển, là đương thể tức không…  Thiền sư nhìn cây gậy với tâm vô phân biệt, thấy như vậy, tâm như như lặng lẽ đã là tu rồi. Vì nhìn thấy cây gậy khởi niệm dính mắc, nên phải dùng pháp quán để đối trị. Thiền sư nhìn cây gậy biết nó là cây gậy không khởi niệm dính mắc cần gì phải quán. Nếu nhìn sự vật mà còn dùng trí quác sát là đã bóp méo sự thật rồi. Thiền gia nhìn sự vật không qua một lăng kính nào, nhìn sự vật là sự vật. Như thấy hoa sen là hoa sen, nếu thấy hoa sen khởi trí quán sát mai kia hoa sen khô héo thành không, hay hoa sen như huyễn như hóa… là đã quên cái hoa sen trong hiện tại rồi. Theo tinh thần Thiền tông thì không đánh mất hiện tại nên nói Như Thị, sự vật thế nào thấy như thế ấy không thêm bớt gì cả. Đó là cái đặc biệt của thiền sư.

Tham khảo


  • Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học năm 1990.
  • Sách Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ, DL 1999 PL 2543.
  • http://www.thientongvietnam.net
Chấm điểm
Chia sẻ
Thiền sư quảng nghiêm

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner app chỐn thiÊng 3 (60x90)