Thiền sư Thường Chiếu (? – 1203)

Thiền sư Thường Chiếu (? – 1203)

Giới thiệu


Thường Chiếu (常照, ? – 1203), là một tu sĩ, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại Việt đời Lý. Ông theo pháp môn Thiền tông, là thiền sư thuộc thế hệ thứ 12  của thiền phái Vô Ngôn Thông. Hiện nay, tư liệu tiểu sử sớm nhất còn sót lại về ông nằm trong bộ Thiền uyển tập anh.

Thiền sư là người họ Phạm nhưng không rõ tên, sinh ra ở làng Phù Ninh, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Theo Thiền uyển tập anh, khi chưa xuất gia, ông đã từng làm quan đến chức Lệnh đô tào ở cung Quảng Từ dưới triều vua Lý Cao Tông. Sau đó, ông từ quan đi xuất gia theo học với Thiền sư Quảng Nghiêm (1122-1190, thuộc đời thứ 11 thiền phái Vô Ngôn Thông) ở chùa Tịnh Quả.

Cơ duyên tu tập


Thiền sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng Từ. Sau từ quan đi xuất gia theo học với Thiền sư Quảng Nghiêm ở chùa Tịnh Quả, chính Sư là người được tâm ấn. Sư ở đây hầu thầy nhiều năm.

Sau đó, Sư tìm đến phường Ông Mạc trụ trì một ngôi chùa cổ, mở mang giáo hóa môn đồ. Rốt sau, Sư dời về chùa Lục Tổ ở làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức trụ trì. Tăng chúng tìm đến tu học càng ngày càng đông.

Có vị Tăng hỏi:

Khi vật ngã vin nhau thì thế nào? Sư đáp:

Về tâm tánh thì vật ngã cả hai đều quên, vì nó vô thường dễ sanh dễ diệt, sát-na (chớp mắt) không dừng thì có cái gì vin nhau? Sanh là vật sanh, diệt là vật diệt, pháp đã được kia, thường không sanh diệt.

Tăng thưa:

Con vẫn chưa hiểu, xin Thầy thương xót chỉ dạy? Sư bảo:

Rõ được tâm mà tu hành thì tỉnh lực dễ thành, không rõ tâm mà tu hành thì phí công vô ích.

Thế nào là Pháp thân khắp tất cả chỗ?

Như một lỗ chân lông khắp cả pháp giới, tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế. Nên biết, nếu tâm không thì không có một tí kẽ hở nào không phải thân Phật. Vì cớ sao? Vì Pháp thân ứng hóa thành Phật không chỗ nào chẳng đến? Thế nên, phải biết đúng như thế. Như Lai dùng sức tâm tự tại, trong chỗ không khởi chuyển mà chuyển pháp luân; biết tất cả pháp thường không khởi, dùng ba thứ pháp nói đoạn, nhưng thật không đoạn mà chuyển pháp luân, biết tất cả pháp lìa biên kiến (chấp một bên) nên ở mé ly dục, nhưng không phải trừ mà chuyển pháp luân. Vào mé hư không của tất cả pháp, nên không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân; biết tất cả pháp là tánh Niết-bàn, nên nói rằng: tánh không tướng, tánh không tận, tánh không sanh, tánh không diệt, tánh không ngã, tánh chẳng phải chẳng ngã, tánh không chúng sanh, tánh chẳng phải chẳng chúng sanh, tánh không Bồ-tát, tánh không pháp giới, tánh không hư không, cũng không có tánh thành Phật.

Nói xong liền nói kệ:

Ở đời làm thân người,

Nơi tâm Như Lai tạng.

Chiếu soi cùng khắp nơi,

Tìm đó lại càng rỗng.

(Tại thế vi nhân thân, 

Tâm vi Như Lai tạng.

Chiếu diệu thả vô phương,

Tầm chi cánh tài khoáng.)

Đến ngày 24 tháng 9 niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu thứ hai (1203), Sư cho hay đau bụng, nhóm chúng nói kệ:

Đạo vốn không nhan sắc,

Ngày ngày lại mới tươi,

Ngoài đại thiên sa giới,

Chỗ nào chẳng là nhà.

(Đạo bản vô nhan sắc,

Tân tiên nhật nhật khoa,

Đại thiên sa giới ngoại,

Hà xứ bất vi gia.)

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết-già thị tịch.

Tác phẩm


  • Thích Đạo Khoa Giáo, một quyển.
  • Nam Tông Tự Pháp Đồ, một quyển.
  • Kệ thị tịch:   

Phiên âm Hán-Việt:

Đạo bổn vô nhan sắc

Tân tiên nhật nhật khoa

Đại thiên sa giới ngoại

Hà xứ bất vi gia.

Nghĩa là:

Đạo vốn không màu sắc

Ngày ngày lại mới tươi

Ngoài đại thiên sa giới

Đâu chẳng phải nhà ngươi.

Đóng góp của Thiền sư


Phật giáo Việt Nam xuất hiện vào thế kỷ II sau công nguyên với sự hình thành trung tâm Phật giáo Giao Châu ở Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay). Ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường tồn tại và phát triển đạo Phật ở Việt Nam qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý và đến khoảng giữa đời nhà Trần. Mãi đến đầu thế kỷ XIII, ba thiền phái mới dần dần nhập lại thành một và sau này trở thành một thiền phái duy nhất đời Trần. Sự sáp nhập của ba thiền phái trên đây đã đưa tới sự phát triển lớn của thiền phái Yên Tử Trúc Lâm do ảnh hưởng lớn lao của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Nhưng người có công đầu trong sự giao nhập ba thiền phái kể trên, phải kể đến vị thiền sư họ Phạm tên là Thường Chiếu. Ông là vị thiền sư thế hệ thứ 12 thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, là tác gia Hán Nôm họ Phạm đầu tiên trong lịch sử, là nhân tố đầu tiên đóng góp tạo nên sự thống nhất các thiền phái, đưa đến sự phát triển lớn của Thiền phái Yên Tử của nền Phật giáo thống nhất đời Trần.

Thiền sư Thường Chiếu, người đã khơi mào cho việc hoà nhập ba dòng thiền, mở đầu cho sự thống nhất các thiền phái của Phật giáo Việt Nam với sự kiện Thiền sư Thường Chiếu thuộc phái Vô Ngôn Thông đến chùa Lục Tổ, một tổ đình lớn của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi mở trường dạy học để giáo hoá Phật pháp cho ta thấy xu hướng hoà nhập của các thiền phái đạo Phật ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XII và đầu thế kỷ XIII đời nhà Trần. Ngoài ra còn có công đào tạo ra một lớp đệ tử xuất sắc như thiền sư Hiện Quang ( ? -1221), vị tổ khai sơn phái Yên Tử; thiền sư Thần Nghi ( ? – 1216), người đã truyền lại và tục biên tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam và thiền sư Thông Thiền ( ? – 1228). Các vị thiền sư này đã có công gây dựng nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thống nhất, ngoài Thường Chiếu là vị tổ khởi đầu ra thì vị tổ thứ nhất của hệ tổ Trúc lâm Yên Tử là thiền sư Hiện Quang. Hiện Quang truyền cho Đạo Viên còn có tên là Viên Chứng là vị tổ thứ hai (được vua Lê Thái Tông phong là Trúc Lâm Quốc sư), rồi đến thiền sư Đại Đăng là vị tổ thứ ba. Mãi đến khi Trần Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử năm 1299, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà (sau này mới đổi hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà) thì Trần Nhân Tông được ghi nhận là người truyền thừa chính thức thuộc thế hệ thứ sáu của phái Yên Tử và là vị tổ thứ nhất của Phật giáo Trúc Lâm. Từ đó trở đi thiền phái Trúc Lâm ở Yên Tử trở thành nổi tiếng, thế lực lan rộng trong triều đình và ngoài xã hội với Trúc Lâm Đầu Đà cùng với các vị đệ tử thiền sư kế tiếp là Pháp Loa và Huyền Quang trở thành Tam Tổ sáng lập ra Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm cho đến ngày nay.

Hiện Pháp danh Thường Chiếu của Thiền sư đã được đặt cho một ngôi thiền viện lớn ở tại xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Người có công tạo lập ra trung tâm tu học này là Hòa thượng Thích Thanh Từ.

Tham khảo


  • Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học năm 1990.
  • Sách Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ, DL 1999 PL 2543.
  • https://xuanay.vn/thien-su-thuong-chieu-nguoi-thuc-day-su-hoa-nhap-ba-dong-thien-cua-phat-giao-viet-nam-ky-xiii/
Chấm điểm
Chia sẻ
Thiền sư Thường Chiếu

Nội dung chính

Hình ảnh
Địa điểm liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *