Thiền sư Từ Đạo Hạnh (? – 1115)

Thiền sư Từ Đạo Hạnh (? – 1115)

Thông tin cơ bản

Thân thế và cuộc đời

Có thể chia tóm tắt sự tích Từ Đạo Hạnh thành ba thời kỳ qua các tài liệu ghi chép như sau:

Thời kỳ thứ nhất: Tiểu sử và quá trình thành đạo

Qua các công trình nghiên cứu của các học giả từ xưa đến nay thì lai lịch, hành trạng của sư được xuất hiện sớm nhất trong sách Thiền uyển tập anh. Tiếp nối Thiền uyển tập anh, hai tác phẩm Việt Sử lược và Lĩnh Nam chích quái ra đời dưới thời Trần đã góp thêm cho hậu thế những tư liệu quý báu về thân thế của vị cao tăng nổi tiếng này. Tuy mỗi tác phẩm có những tình tiết khác nhau nhưng thiền sư Từ Đạo Hạnh hiện lên qua hình dung của các tác giả thời bấy giờ đều có những nét chung rất cơ bản. 

Theo đó: Sư họ Từ, tên là Lộ, năm sinh không rõ, mất năm 1117. Cha là Từ Vinh, mẹ là con gái nhà họ Tăng ở Hương Lãng (làng Láng) nay thuộc quận Đống Đa – Hà Nội. 

Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. 

Ban ngày Sư thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui, đêm về, Sư khổ công đọc sách, thân phụ không biết thường trách Sư biếng nhác.

Một hôm, cha Sư lén vào phòng ngủ của sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn. Kể từ đó, cha Sư không lo nữa. 

Sau dự kỳ thi tăng hương thí, đỗ khoa Bạch Liên. Cha Sư dùng tà thuật làm phật ý Diên Thành hầu, nên bị Diên Thành sai Đại Điên thiền sư dùng phép đánh chết, từ đó Sư quyết chí tìm đường sang Ấn Độ học phép lạ để trả thù cho cha. Tuy nhiên, khi sư đặt chân đến nước Kim Xỉ, gặp khó khăn, trở ngại buộc sư phải quay về, tu luyện ở chùa Thiên Phúc, thuộc huyện Quốc Oai, Hà Tây (nay là Hà Nội) và chuyên trì tụng Đại bi tâm Đà La ni (kinh Mật Tông) đủ mười vạn tám nghìn lần. Chính nhờ quá trình tu luyện, Thiền sư Đạo Hạnh đã trang bị được cho mình những phép thuật cao cường như phù phép, gọi gió, gọi mưa hay chữa bệnh và đã trả thù cho cha. Sau đó, Thiền sư Từ Đạo Hạnh đi khắp mọi nơi để tìm thầy ấn chứng. Bấy giờ, nghe danh của tăng Kiều Trí Huyền tu đắc đạo, người đã tới hỏi về “chân tâm” nhưng câu trả lời của sư Kiều Trí Huyền không đủ để ngài thông hiểu. Tiếp đó, Sư lại tìm đến chùa Pháp Vân (chùa Dâu – Bắc Ninh) gặp sư Sùng Phạm, thuộc thế hệ thứ 10 thiền phái Tỳ ni đa lưu chi (Vinitaruci) và đã được Sùng Phạm nhận làm đệ tử. Sau khi được sư Sùng Phạm truyền tâm ấn, thiền sư Từ Đạo Hạnh đã quay trở lại chùa Thầy để tiếp tục tu hành. Tại đây, Đạo Hạnh không ngừng tu luyện, đạo pháp ngày càng cao siêu, thậm chí người còn sai khiến được các loài chim thú. Bấy giờ, dân trong làng có bệnh đến xin người bùa dấu thì đều khỏi. 

Thời kỳ thứ hai:  Hiện thân “Tái sinh”

Theo các nguồn tư liệu cho biết, để tạ ơn Lý Nhân Tông, Thiền sư Từ Đạo Hạnh “hóa” vào cửa nhà Sùng Hiền hầu để đầu thai lên làm vua. Ông biết việc của mình “ta chưa hết nhân duyên với đời, lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian”. Căn dặn đệ tử: khi nào chết lại về làm chủ “Tam thập tam thiên”, nếu thấy thân nhân ta bị nát hết, bấy giờ ta mới vào cõi “bất sinh bất diệt”. Sư đập đầu vào vách đá, nện chân lên bàn đá rồi hóa…  Xác còn ở trong động, trải qua hàng tháng vẫn thơm tho, người làng lấy làm lạ để vào trong cái khám để thờ.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh là hiện thân của Lý Thần Tông, lúc nhỏ không cần nuôi mà chóng lớn, không cần học mà thông suốt, người đẹp mà có tài vô song. Lớn lên trị vì đất nước (1128 -1138) được coi là vị vua, tư chất thông minh, độ lượng nên việc sửa sang chính sự, dùng người hiền tài,… Song quá thích điềm lành, tôn sùng đạo Phật. Để tạ ơn Phật, Sư cho xây sửa nhiều chùa, khánh thành 8 vạn 4 nghìn bảo tháp… Cuộc đời của Sư linh ứng với kiếp trước, năm 21 tuổi bị bệnh mình mọc đầy lông biến hình như con hổ và chỉ được đạo hữu Minh Không chữa khỏi theo lời nguyền kiếp trước. Khi Sư mất chùa Thiên Phúc hiện lên khí thiêng lạ thường, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. 

Thời kỳ thứ 3: Luân hồi

Gần 300 năm sau, khi quân Minh sang xâm lược nước ta (1403 -1424), đến chỗ sư tịch năm xưa tại chùa Thiên Phúc thấy mùi hương thơm nức, tìm đến trong khám thấy Chân nhân một vị đạo nhân, nét mặt tươi như lúc sống. người Minh cho là Tiên, mới rước sang chùa Hương Sơn làm phép hỏa táng… nhặt lấy tro đắp thành tượng, bỏ vào khám cũ để thờ ở bên trái chùa Thiên Phúc. 

Hơn 300 năm sau (1460 -1469), Trường Lạc Hoàng Hậu sai Thái úy Trinh Quốc Công lên động chùa Thiên Phúc cầu tự. Khi làm lễ có một phiến đá ngoài động bay vào, Trinh Quốc công mang về trình Hoàng hậu. Ít bữa sau, hoàng hậu mộng thấy rồng vàng vào bên sườn, rồi có mang sinh ra vua Lê  Hiến Tông. Từ đó chùa càng nổi tiếng thiêng… tới nay hương khói không lúc nào dứt. 

Như vậy, nhân vật Từ Đạo Hạnh là một hiện tượng lịch sử, gắn liền với một địa danh lịch sử chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), cùng chuỗi truyền thuyết lịch sử hình thành nên “một tuyến” trong văn hóa Việt Nam. Hiện tượng Từ Đạo Hạnh hội tụ đủ các yếu tố văn hóa: Phật – Đạo – tín ngưỡng thờ cúng tiền nhân, được mở đầu từ thời Lý và kéo dài cho đến ngày nay là một điểm nhấn đặc sắc, phản ánh khá đầy đủ hệ tư tưởng, tín ngưỡng của dân tộc, một truyền thống văn hóa mở làm nên bản sắc văn hóa dân tộc trong lịch sử.

Công đức của Thiền sư qua văn khắc chuông chùa Thiên Phúc (Chùa Thầy).

Văn khắc chuông chùa Thiên Phúc là một tư liệu rất quý nói về công đức hoằng pháp Phật giáo của thiền sư Từ Ðạo Hạnh. 

Nguyên văn chữ Hán:

[山西處國威府安山縣瑞圭杜佛蹟山]

天福寺洪鐘銘文

維龍符元化九年己丑正月、道行禪師緣化巨越國、朱門白屋、人人喜供、獲赤銅貳千餘斤、鑄洪鐘一口、懸於蒲陀落山香海院內、扣擊六時行道、上報四恩、下濟三塗者。

夫妙理雖一、妄境寔繁、稟雖一而萬化生成、隨萬化而惟一圓點、無形可測、無語可諳、無形而形遍大千、無語而語周億剎、窄不為礙、雜不為緇、在纖塵而花藏莊嚴、居濁劫而圓珠瑩徹、是眾生之幸意、非諸佛之別心、覺也者、一路涅槃,迷也者、六趣生滅、由是自相悲憫、假相殊倫、聖賢服如蟻慕羶、神力化如風偃草、亟職芒昧、邪病纏綿、演古教而導矣、定未齊知,俾信器而警焉、方能漸進、其教也、依根立說、以一乘而括囊,其器也、取象成名、以洪鐘為鈐轄。

鐘者、外示圓寔、內表含虛、其圓也、常用而靡覺,其寔也、取難壞之名,其含也、諸入而勿礙,其虛也、揚無盡之意、不如是、何佛命一叩、天雷吞聲、地籟收響、即三界返悟;幸智乃三塗纘諸苦真、豈越列不以事濟天下耶、洎後欣光結席、承撻而淨眾駢羅,慶喜登猊、依擊而說法嚴備、自茲、孰能繼者、是真可矣。

而今即有道行禪師、幼而秀骨、長乃奇姿、誦習蓮經、玉戛喉而嘹喨,出家運度、佛生意而慈悲、建八種而海寓盡嚴,究三篋而禪經共貫、覯時大旱、燃一指而雨霈然、斅古休糧、坐多年而容無饑色、萬民起厲、持水洒而幸絕病源,諸事未萌、預言知而的如符契、經曰:「佛有八辨」、非師而不繼圓音、佛制尸羅、非師而不能堅固、帝釋福田、非師而不播雄馨、藥王燒臂、非師而不奈苦誠、觀音救難、非師而不紹功名、高僧顯異、非師而不踵神靈」。

然濟機云畢、擇處栖遲、出城西而耳斷喧、歷禍路而心自淨、越一江水、見一山青、掉石而步落俗塵、捫蘿而身登上界、其山也、聳稜(楞)伽之繞、生寶月之秋、有奇尺梯、八圓龕、石龕也、五色雲成就、七珠寶纍垂、蛛網相聯、銖衣間綵、下存佛跡、中壯倪臺、其跡也、白玉在底、青龍盤外,其臺也、犀角鎮傍、燈釭連次、豈模仗室、即模鷲峰、昔隱者功德所成、豈神靈造化所異、師居未逾旬、事還感應、野虎來伏、山虯自馴、寂寞夜而誦蓮經、穹崇天而送花鼓、處周六載、惠普積千、諸王子之車馬響風、傾國人之香花頂禮、御書赍詔、法席降臨、賜寶衣而等上朋、陟佛車而牟四果、齋罷之日、金錫迴立於山腳、弟子各伸其言意、雷同曰:「岩巔峭直、雲路歌(敧)危、師神足之易登、客凡蹤之難步、唯占下土、亦合勝方、巒屈曲而豈異蒲陀、水澄徹而何殊香海」、命其良匠、揆彼中央、構玉宇而晃四維、坐金容而光有截、眾馳斯語、樹即揚聲、片時而士女親來、不日而境界便現、採梓杞木、陶碧瓦爐、繩墨縱橫、斤斧雜遝、峨峨新院、業業巍樓、裁 (栽) 松而徑引清涼、藝化而景延馥郁。

師乃曰:「斯堂秩秩、就眾森森、不免說法之筵、必掛洪鐘之警、法雖自我、鐘必從他」、故築 (策) 仗 (杖) 化、高於阡陌、如麟遊獸舞、逐鳳翔凰、競隨行未兩旬、施堆一阜、詣於興福寺、章飛雲陛、天錫金宮、鍊土成模、揚火精鍛、鑄之日、師雖緘默、人競稱揚、感太后之同風、遣中使之赍室、次乃輪蹄奔而空朱戶、少艾走而閴(闃)閭閻、擅入香階、紛若東市、頃、火工肆力、金匠嚴令、鼓橐籥而聲振海隅、迸煙爐而光騰銀漢、完器有異、嘉瑞相生、未幾者、更邀庶類、抗縻巨扛、纔礱而色奪雪花、乍擊而聲逾雷吼、天下聆之、人咸慶仰、師將歸蒲陀岩畔大悲雲樓、懸以金索、撞以鯨槌、旦夕行道、先報今上永化、寶祚長新、感國器而世蕃昌、字黎元而邦彌泰、然願崇高慕道、洞達純真、以福蔭於蒼生、用匡扶於洪業、後冀施修巨細等、順風遷善、頂戴香花、今景祿來茨、後悟符本覺。

師見余曰:「新成犍稚一口、則眾緣同修、我罔績可紀、留芳施者名、聊記傳後」、惠興淺學、不辭搦管為銘。銘曰:

佛以洪鐘警物兮、悟本心

師成法器化世兮、發信音

天宮既著欲色兮、還自覺

地府當要刑戮兮、放若深

龍符元化九年己丑、八月、初九日立記、天福寺賜紫大沙門釋惠興撰。

Dịch nghĩa:

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc, ở núi Phật Tích, xã Thụy Khê, huyện An Sơn, Phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây.

Tháng giêng năm Kỷ Sửu nhằm vào năm thứ 9 (1109) niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa, Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên trong nước Đại Việt. Mọi người từ giàu đến nghèo, ai ai cũng vui vẻ cúng dường. Quyên được đồng đỏ tất cả hơn hai ngàn cân. Đúc được một cái chuông lớn, treo trong viện Hương Hải ở núi Bồ Đà Lạc, sáu thời đánh chuông hành đạo, trước báo bốn ơn, sau cứu tam đồ.

Diệu lý tuy chỉ có một mà vọng cảnh thì thật nhiều. Tuy là một nhưng do thiên biến vạn hoá tạo thành. Dù thiên biến vạn hoá tạo thành cũng chỉ là duy nhất mà thôi, không hình tượng mà có thể lường được, không lời nói mà có thể cảm được, không hình tượng mà hiện khắp cõi đại thiên, không lời nói mà nghe vang khắp cõi Phật. Nhỏ bé mà không cùng, hỗn độn mà không hóa thành đen, ở đời trần bụi mà trang nghiêm như Hoa Tạng thế giới, ở kiếp ô trược mà long lanh như ngọc thạch. Đó là sự may mắn của chúng sinh, chứ chẳng phải ý riêng gì của chư Phật. Kẻ giác ngộ thì thẳng đường lên Niết Bàn, còn kẻ mê lầm thì sinh diệt theo Sáu con đường. Rồi thì cứ lo lắng, giả tưởng thì nhiều. Việc thánh hiền sánh như kiến tìm mùi tanh. Chuyện thần lực cũng như gió đè cỏ mọc. Cứu mê tăm tối, bận rộn lăn lóc với những công việc cấp bách, lại phải vương mang vào tà ma, bệnh tật. Đem lời cổ nhân ra dạy bảo cũng khó làm được. Nay dùng chuông làm vật cảnh tỉnh, mới có thể có hiệu quả dần dần. Việc giáo hóa thì phải tùy căn cơ mà tìm phương cách. Thấy giáo lý “Nhất Thừa” là hơn cả, mà chuông là vật quan hệ nhất.

Chuông, ngoài Tròn, Chắc trong Rỗng, Không. Thường sử dụng, quá quen nên hay quên nên gọi là Tròn. Khó bị hư nên gọi là Chắc. Đem vật thọc vào, đổ chứa vào mà không trở ngại gì nên gọi là Rỗng. Ngân nga vang vọng nên gọi là Không. Nếu không phải thì sao Phật cho gõ một tiếng mà sấm trời im bặt, mọi âm vang trên mặt đất đều lặng câm. Đó là lúc trong Tam Giới tỏ ngộ. May mắn biết rằng chúng sinh trong Tam Đồ mãi chịu khổ. Biết như vậy mà không đem sức mình ra để cứu thiên hạ hay sao? Từ đó về sau, mỗi khi gặp lễ, đèn treo, chỗ sắp, nghe tiếng chuông Phật tử sắp thành hàng. Bước lên bệ gióng chuông thuyết pháp bội phần trang nghiêm. Làm được như vậy, có ai hơn được!

Nay có thầy Đạo Hạnh, từ bé cho đến lớn, cốt cách lạ thường, Tụng học kinh Liên sang sảng. Xuất gia hành đạo, thấm nhuần ý Phật từ bi. Xây tháp trang nghiêm. Học kinh kệ thấm nhuần đạo lý. Gặp lúc trời hạn, vung tay một cái trời mưa xuống dầm dề. Học thói người xưa nhịn ăn, ngồi nhiều năm mà vẻ mặt không thấy đói. Dân gặp lúc bệnh dịch, phẩy nước lạnh thì bệnh lành ngay. Việc chưa xảy ra mà đoán biết trước như có phù phép. Kinh dạy rằng Phật có “Tám Lời”, nếu không có thầy thì làm sao Tám Lời âm vang tiếp tục. Phật đặt ra “Thi La”, nếu không có thầy thì làm sao “Thi La” bền vững. Nếu không có thầy thì làm sao thắp được hương trong vườn phúc của Đế Thích. Dược Vương đốt thịt chữa bệnh, nếu không có thầy thì ai chịu đựng nổi. Quan Âm cứu nạn, nếu không có thầy thì ai biết đến công đức của ngài. Cao tăng tỏ việc linh dị, nếu không có thầy ai nối gót thần linh?

Nay chuyện hành đạo đã xong, muốn tìm nơi ẩn náu. Ra phía tây kinh thành, nơi tĩnh mịch xa, chốn ồn ào huyên náo, đi qua đường lối hiểm nghèo nhưng lòng thanh tịnh. Qua khỏi con sông, gặp núi xanh, leo đường dốc đi lên, đất đá rơi xuống lăn lóc, nắm dây trèo lên nơi cao. Núi này cao ngút bao bọc như núi Lăng Già, có trăng thu tròn đẹp, có dốc đá kỳ vĩ, có vòm đá, động đá thờ Phật, có mây ngũ sắc kết tủa như châu ngọc buông rèm, rực rỡ tơ vương đan hình vào nhau như màng nhện. Dưới có vết tích của Phật, giữa có đài nghê tráng lệ. Dấu Phật có ngọc trắng dưới đáy, có rồng xanh bao bọc bên ngoài. Ðài nghê có tê giác đứng trấn bên cạnh. Có đèn treo kết chuỗi thành hàng. Ðây đâu phải chỉ giống phòng phương trượng, mà chính là ngọn Thứu Phong. Ngày xưa các bậc ẩn sĩ góp sức, góp của làm nên, đâu có khác gì thần linh tạo thành? Thầy đến ở chưa tới mười ngày mà đã có điều linh ứng. Cọp tới chầu hầu, rồng kia thuần tính. Ðêm vắng tụng kinh Liên, trời cao vòi vọi vang nghe tiếng trống. Thầy ở suốt sáu năm, ân huệ vun đầy. Các hoàng tử xe ngựa tới lui tấp nập. Mọi người trong nước đến dâng hoa đảnh lễ. Vua cho người lại ban chiếu chỉ, làm tiệc chay cúng dường. Ban cho áo mão cà sa, cung nghinh như bậc thượng khách. Lên xe Phật để cầu Tứ quả. Lễ chay xong rồi, thầy chống gậy đi trở xuống chân núi. Tất cả các đệ tử mọi người cùng nói rằng: “Vách đá dựng đứng, đường đi nguy hiểm. Bước chân như thần của thầy thì đi dễ, chứ khách phàm thì làm sao bước đi được. Xem chỗ đất này cũng là nơi thắng cảnh. Ðồi núi chập chùng đâu khác gì núi Bồ Ðà. Nước trong vắt thua gì biển Hương Hải. Gọi thợ giỏi, chọn nơi chính giữa, xây lầu ngọc sáng chói bốn phương. Giữa đặt tượng Phật hào quang sáng rạng. Mọi người cùng tỏ lời nói này. Cây cỏ rì rào cùng loan tin đi. Trong chốc lát, thiện nam tín nữ tề tựu đông đúc. Chỉ trong một ngày mà quang cảnh trở nên khác lạ. Người đốn cây quý, kẻ xây lò gạch. Thước mực giăng đầy. Búa rìu chan chát. Chốc lát, sân mới nguy nga, gác lầu sừng sững. Trồng tùng xanh cho mát mẻ lối đi. Gầy hoa cảnh cho vườn thêm ngát.

Thầy nói rằng: “Chùa thì trang nghiêm, Phật tử thì đông đúc. Gặp lúc lễ lượt thuyết pháp thì phải treo chuông cảnh tỉnh. Phật pháp là chuyện của ta, nhưng chuông thì phải nhờ người”. Nói rồi, chống pháp trượng ra đi, thoăn thoắt trên khắp nẻo đường, như lân vờn thú nhảy, như phượng múa rồng bay. Người ta tranh nhau đi theo, chưa tới hai mươi ngày đã quyên được (đồng đỏ) đem về chất một đống cao. Rồi đem đến chùa Hưng Phúc. Gửi thư về tâu cho vua rõ, ngài đã cho phép dựng chùa. Nhào đất làm khuôn, đốt lửa luyện đồng, thầy dù chẳng nói gì, nhưng người người vui vẻ huyên náo. Cảm ơn Thái Hậu nhiệt tình cho người đem tặng lễ vật. Rồi thì hết cả nhà giàu đều kéo xe tới, trai trẻ cũng lũ lượt tới giúp đến nỗi xóm làng vắng vẻ. Người đến đông như đi phiên chợ đông vậy. Chẳng mấy chốc, thợ rèn gắng sức, thợ đúc lo lắng chuẩn bị, thổi ống bệ tiếng nghe vang dội, lửa đỏ cháy rực, chiếu sáng lên tới dải ngân hà. Chuông đúc xong thấy rõ lạ thường, có nhiều điểm tốt lành. Không lâu sau đó, mời mọi người buộc thừng khiêng lên. Mới chùi mà sáng bóng tựa hoa tuyết. Vừa gõ thì tiếng ngân vang như sấm, vang dậy khắp nơi. Mọi người đều mừng rỡ thích thú. Thầy sắp trở về lầu Đại Bi trên núi Bồ Đà. Dùng dây vàng buộc treo, dùng chày kình đánh chuông, ngày đêm hành đạo. Trước, báo ân dày của Vua, cầu mong ngai vàng bền vững. Nhờ pháp khí (chuông) mà dân gian thanh bình, đất nước bình yên, con dân no ấm. Nguyện rằng đem đạo nhiệm mầu, thấu triệt thuần chân làm phúc lớn che chở cho mọi người, để khuông phò nghiệp lớn. Sau, mong cho mọi. người lớn bé cùng nương theo mà hướng đến cõi thiện, cùng theo Phật pháp. Hôm nay có được phúc lành để sau chứng ngộ.

Thầy nói với tôi rằng: “Chuông đã đúc xong, vì mọi người có duyên tu tập, còn ta chẳng có công đức gì. Hãy ghi lại tên tuổi của những người đã cúng dường để lưu truyền lại mai sau”. Huệ Hưng ít học, cầm bút viết bài minh này.

Viết rằng:

Chừ Phật dùng chuông cảnh tỉnh để ngộ bản tâm

Nay thầy dùng chuông phát tín âm để răn dạy đời

Cung trời đã mang dục sắc, hãy trở về bổn giác

Âm phủ đã bắt đầu hình phạt, hãy nghĩ cho sâu xa.

Sa Môn áo tía Thích Huệ Hưng phụng soạn vào ngày mồng chín, tháng tám, năm Kỷ Sửu niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa thứ chín.

Thơ thiền

Đạo Hạnh thiền sư để lại 5 bài thơ thiền là:

  • Giáo trò
  • Hữu không (in trong Thơ văn Lý Trần (tập I), NXB Khoa học xã hội, 1977)
  • Kệ thị tịch
  • Thất châu
  • Vấn Kiều Trí Huyền

Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong ứng xử của người Việt 

Có thể nói, Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một trong những vị Thiền sư có sức ảnh hưởng được sử sách chép lại nhiều nhất từ xưa đến nay. Sức ảnh hưởng của sư không chỉ bó hẹp ở một phạm vi nhất định mà vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp, lan rộng ra vùng châu thổ Bắc Bộ trải dài từ chùa Thầy đến chùa Láng rồi kéo tận đến Như Quỳnh, Hưng Yên đều thờ sư. 

Dưới đây là bảng thống kê Thánh Đạo Hạnh ở vùng châu thổ Bắc Bộ

 

TT

Tên gọi

Vị trí địa lý

Vị thánh được thờ

1

Chùa Thầy

(Thiên Phúc tự)

Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội

Từ Đạo Hạnh

2

Chùa Đồng Bụt

Ngọc Liệp, Quốc Oai, Hà Nội

Từ Đạo Hạnh

3

Chùa Bối Khê

(Đại Bi tự)

Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội

Nguyễn Bình An

(Thánh Bối)

4

Chùa Trăm Gian

(Quảng Nghiêm tự)

Tiên Phương, Chương Mỹ, Hà Nội

Nguyễn Bình An

 (Thánh Bối)

5

Chùa Nả

(Phúc Lâm tự)

Chu Minh, Ba Vì, Hà Nội

Nguyễn Đạo Hạnh

6

Chùa Keo

(Thần Quang tự)

Dũng Nhuệ, Vũ Thư, Thái Bình

Dương Không Lộ

7

Chùa Điềm Giang

(Viên Quang Tự)

Gia Thắng, Gia Viễn,Ninh Bình

Nguyễn Minh Không

8

Chùa Láng

(Chiêu Thiền tự)

Phố Chùa Láng, Hà Nội

Từ Đạo Hạnh

9

Chùa Keo

(Thần Quang tự)

Xuân Trường,Nam Định

Dương Không Lộ

10

Chùa Ông

Tân Quang, Văn Lâm, Hưng Yên

Từ Đạo Hạnh

11

Chùa Nội

 

Nam Thanh, NamTrực, Nam Định

Dương Không Lộ

12

Chùa Cổ Lễ

(Thần Quang tự)

TT Cổ Lễ, Trực Ninh, Nam Định

Nguyễn Minh Không

Dương Không Lộ

13

Chùa Tây Lạc

Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định

Dương Khổng Lộ

Từ Đạo Hạnh

Nguyễn Giác Hải

14

Chùa Lương Hàn

(Bảo Quang tự)

Việt Hùng, Trực Ninh, Nam Định

Dương Khổng Lộ

Từ Đạo Hạnh

Nguyễn Giác Hải

15

Chùa Vũ Lao

(Thần Quang tự)

Tân Thịnh, Nam Trực, Nam Định

Dương Không Lộ

16

Chùa Nam Hà

(Diên Phúc tự)

Tân Thịnh, Nam Trực,  Nam Định

Dương Không Lộ

17

Chùa Bí

(Đại Bi tự)

Nam Giang, Nam Trực, Nam Định

Từ Đạo Hạnh

18

Chùa Trông

(Hưng Long tự)

Hưng Long, Ninh Giang, Hải Dương

Nguyễn Minh Không

Dương Không Lộ

19

Chùa Nghĩa Xá

Xuân Trường, Nam Định

Nguyễn Giác Hải

Dương Không Lộ

Từ Đạo Hạnh

Nguyễn Minh Không

20

Chùa Tổng

 (Thiên Hương tự)

La Phù, Hoài Đức, Hà Nội

Từ Đạo Hạnh (ngồi giữa)

Dương Không Lộ

Nguyễn Giác Hải

21

Chùa La Phù

(Trung Hưng tự)

La Phù, Hoài Đức, Hà Nội

Từ Đạo Hạnh (ngồi giữa)

Dương Không Lộ

Nguyễn Giác Hải

22

Chùa Ngãi Cầu

 (Phổ Quang tự)

An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội

Thờ vọng tam Thánh: Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải

23

Chùa Văn

(Thiên Văn tự)

Dương Nội, Hoài Đức, Hà Nội

Thờ vọng tam Thánh: Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải

24

Chùa Múa

(Thiên Vũ tự)

Dương Nội, Hoài Đức, Hà Nội

Từ Đạo Hạnh (ngồi giữa)

Dương Không Lộ

Nguyễn Giác Hải

25

Chùa La Dương

(Diên Khánh tự)

Dương Nội, Hoài Đức, Hà Nội

Từ Đạo Hạnh (ngồi giữa)

Dương Không Lộ

Nguyễn Giác Hải

 

Hằng năm cứ đến ngày mùng 7 tháng 3, ngày hóa của Ngài, tại chùa Thiên Phúc lại tưng bừng lễ hội, đây được xem như ngày đại tế của dân làng. Cứ vào ngày này nhân dân 4 làng trong xã là Thụy Khê, Đa Phúc, Sài Khê và Khánh Tân với 4 kiệu cỗ đặt bài vị của các vị thần ở 4 làng đến yết kiến thánh Từ Đạo Hạnh. Đám rước bắt đầu xuất phát khoảng 3 giờ chiều từ chùa Thầy ra gò Thiên (Quán Thánh). Theo tương truyền thì đây là nơi quân Minh đốt xác sư. Bài vị của làng nào thì làng đó sẽ tự khiêng nhưng riêng bài vị của Ngài thì do thanh niên trai tráng của cả 4 làng khiêng lấy. Tiếp sau đó là nhang án, ban tế và đông đảo nhân dân khắp mọi nơi về. Tuy đoạn đường từ chùa Thầy ra Quán Thánh không xa (khoảng 1km)  nhưng đám rước đi rất chậm như thể còn để Ngài thưởng thức phong cảnh ngày xuân. Khi đám rước đặt chân đến Quán Thánh thì nhang án cùng lễ vật được bày ra để làm lễ Ngài và cùng lúc đó, áo vàng của Thánh mặc trên bài vị của Từ Đạo Hạnh sẽ được thay thế bằng áo cà sa của nhà Phật. Phải chăng đây là sự hiện thực hóa quan niệm cho rằng: Từ Đạo Hạnh   “đi Thánh, về Phật” nghĩa là ban đầu thì luyện phép tu tiên rồi sau đắc đạo rồi mới tu Phật. Đám rước quay về lúc trời đã xá xẩm tối, tuy nhiên không khí vẫn hết sức trang nghiêm và nhộn nhịp. Ở các gia đình xung quanh đó, nhà nào cũng hồi hộp mong chờ kiệu Thánh tới để cầu xin Thánh thiêng ban phúc phước đầu năm. Đồng thời với những nghi lễ linh thiêng ấy thì tại tọa Thủy Đình và bãi cỏ rộng trước chùa, những hoạt động hội hè vui chơi độc đáo như trò múa rối nước, câu cá, úp nơm… cũng diễn ra. Rồi hang Thánh Hóa, nơi Thánh hóa cũng là địa điểm thu hút rất nhiều người đến thăm thú, tưởng nhớ vị cao tăng họ Từ và cũng là nơi bày tỏ những ước nguyện thiết tha thành khẩn của mình…

Trải qua nhiều thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, cứ đến ngày 7/3  hằng năm, nhân dân phật tử gần xa, về đây hội tụ, thắp nén hương thành kính tưởng nhớ Ngài. Nó trở thành một nếp văn hóa ăn sâu vào tâm thức biết bao người dân đất Việt và nó đã hóa thân thành linh hồn dân tộc.

Tài liệu tham khảo

  1. Theo Ngô Thế Lân, Nguyễn Quốc Khách, Tìm hiểu Thiền sư Từ Đạo Hạnh qua văn khắc chuông Thiên Phúc tự (chuông chùa Thầy), Viện nghiên cứu Hán Nôm. 
  2. Ths. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong tâm thức và hành xử của người Việt, Đại học Sư phạm Hà Nội. 
  3. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1990), Thiền Uyển tập anh (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch), Phân viện Nghiên cứu Phật học và Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  4. Thiền sư Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb Tôn giáo học
5/5 (21 bình chọn)
Chia sẻ
Thiền sư từ Đạo hạnh

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner app chỐn thiÊng 3 (60x90)