Thân thế
Thiền sư Vạn Hạnh (chữ Hán: 萬行) (938 – 1018) là một tu sĩ Phật giáo Đại Cồ Việt, người châu Cổ Pháp (Bắc Ninh). Ông là một trong những Phật tử làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành, đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này cướp ngôi và triều Lý thành lập. Ông được xem là người có tài tiên đoán, đã tận dụng lời đồn này để đưa Lý Uẩn cướp ngôi mở ra triều Lý, triều đại bất chính đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Hành trạng
Ngay thuở nhỏ, ông đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với bạn là Thiền sư Định Tuệ dưới sự chỉ dẫn của Thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma Địa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính ông.
Năm 980, hoàng đế Đại Tống sai tướng Hầu Nhân Bảo mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, Lê Đại Hành triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày quân Tống sẽ rút lui. Lời này sau ứng nghiệm. Khi Lê Đại Hành muốn xuất quân đánh Chiêm Thành để cứu sứ giả bị vua Chiêm bắt giữ nhưng còn do dự, thì Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng để mất. Sau đó lời này nghiệm, và Lê Đại Hành đánh tan quân Chiêm.
Những bài sấm
Thiền sư Vạn Hạnh thông cả ba tư tưởng: Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Tư tưởng chính của thiền sư là tu theo pháp “Tổng trì tam muội”. Ngài chuyên nghiên cứu sâu về tư tưởng bồ tát Long Thọ với tinh thần của “Trung Luận”.
Theo sách Thiền Uyển tập anh, thời bấy giờ có người tên Đỗ Ngân muốn ám hại thiền sư; việc chưa xảy ra thì thiền sư đã biết trước, gửi cho Đỗ Ngân bài thơ:
- Cây đất sinh nhau bạc với vàng,
- Cớ sao thù địch mãi cưu mang.
- Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt,
- Thật đến về sau chẳng hận lòng.
Đỗ Ngân bèn từ bỏ dã tâm.
Trong cuộc vận động Thân vệ Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) lên ngôi, ông đã tác động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu.
Sách Thiền Uyển tập anh nói những loại sấm truyền và tiên tri ông dùng có rất nhiều thứ không kể hết được. Sách này kể ra một vài phương pháp đã dùng: Hồi Lê Ngọa Triều đang thi hành chính sách bạo ngược bị thiên hạ ghét bỏ, thì tại Cổ Pháp có một con chó trắng xuất hiện trên lưng nó có hai chữ “thiên tử” lấm tấm bằng lông đen. Thiên hạ bèn đồn rằng con chó là tượng trưng cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sinh vào năm Tuất sẽ xuất hiện cũng vào năm Tuất (tức năm 1010).
Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, thiền sư ở trong chùa Lục Tổ nhưng đã biết trước, nói với người bác và chú của Thái Tổ rằng: “Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Bác và chú vua Thái Tổ thấy lo bèn sai người đi dò tin tức, mới thấy lời thiền sư nói đúng.
Ngày Rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (tức 30 tháng 6 năm 1018), khi công hạnh đã viên mãn, Thiền sư gọi đồ chúng lại dặn dò, đọc bài kệ rồi thị tịch. Vua Lý Thái Tổ và tất cả triều thần nhà Lý đến làm lễ Trà tỳ, thỉnh xá-lợi của ông về thờ tại chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Bài kệ của ông có nội dung như sau:
“Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xanh tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông“
Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, thiền sư ở trong chùa Lục Tổ nhưng đã biết trước, nói với người bác và chú của Thái Tổ rằng: “Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Bác và chú vua Thái Tổ thấy lo bèn sai người đi dò tin tức, mới thấy lời thiền sư nói đúng.
Đóng góp
Sử sách và thế gian chỉ ghi rằng Lý Công Uẩn lên làm vua, Đào Cam Mộc dẹp yên các phe phái trong triều đình và quần chúng ủng hộ cuộc cách mạng. Còn Thiền Sư Vạn Hạnh, người như hạc vàng, đã bay vào vô tận, không để lại dấu vết, hình tướng, chỉ để lại hương thơm muôn thuở trong lòng người và lòng dân tộc. Không những đối với cuộc cách mạng năm 1009, mà đối với tất cả sự nghiệp vĩ đại khác mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã làm như dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, kiến thiết kinh thành Thăng Long…, thiền sư đều làm với tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh và vô hành. Giúp dân dựng nước hay hoằng pháp độ sanh, thiền sư đều làm một cách bình dị, tự nhiên như uống trà, cuốc đất, thở ra, thở vào, nằm, ngồi, đi, đứng.
Qua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ cao đẹp nhất, bao trùm nhất. Sự nghiệp của Thiền Sư Vạn Hạnh không phải là sự nghiệp của Phật giáo Việt Nam mà thôi, mà còn chính là sự nghiệp Việt Nam. Thiền Sư Vạn Hạnh qua những công việc phi thường nầy, đã không làm cho riêng mình, đóng góp không ít cho Phật giáo mà đã làm tất cả cho dân tộc Việt Nam ta.
Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) có bài kệ “Truy tán Vạn Hạnh Thiền sư”
Phiên âm Hán Việt:
- Vạn Hạnh dung tam tế
- Chân phù cổ sấm cơ
- Hương quan danh Cổ Pháp
- Trụ tích trấn vương kỳ.
Bản dịch nghĩa của Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình:
- Vạn Hạnh thông ba cõi
- Thật hợp lời sấm xưa
- Quê hương tên Cổ Pháp
- Chống gậy trấn kinh vua.
Bản dịch thơ của Nguyễn Văn Trình:
- Học thông tam giới ghê thay
- Rằng thầy Vạn Hạnh thi tài rất cao.
- Cửa làng Cổ pháp tiếng reo
- Gậy tăng đủng đỉnh bay vào Đế đô.
Tham khảo
- Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, năm 1990
- Sách “Thiền sư Việt Nam”, Thích Thanh Từ, DL 1999 – PL 2543
- https://phatgiao.org.vn/thien-su-van-hanh-va-su-nghiep-viet-nam-d23259.html
- https://nghiencuulichsu.com/2017/06/27/thien-su-van-hanh-va-su-menh-lich-su/