Chùa Một Cột (Ba Đình, Hà Nội)

Thông tin cơ bản

Tên gọi và vị trí địa lý 

Chùa Một Cột là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn Phật giáo thời Lý. Ngôi chùa nằm cạnh quần thể di tích Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh tại phố Chùa Một Cột, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. 

Qua chiều dài lịch sử ngôi chùa này được gọi với nhiều tên khác nhau: Chùa Một Cột chữ Hán là “Nhất Trụ tự”, Diên Hựu, Chùa Mật (chữ Hán là Nhất Trụ tháp), vì kiến trúc ngôi chùa giống với bông hoa sen nên cũng được gọi là Liên Hoa Đài (đài hoa sen). 

Lịch sử hình thành 

Theo những tư liệu mà chúng tôi tìm hiểu được, thì có những cuốn sách của các nhà nghiên cứu đã đưa ra những tư liệu sau:

Sách La Thành cổ tích dân vịnh của Tiến sĩ Trần Bá Lãm (1788) cho biết :“chùa Một Cột ở xã Nhất Trụ, huyện Vĩnh Thuận, về sau dân đến ở thành xóm làng đông đúc gọi là xã Một Cột. Vua Lý Thái Tông tuổi đã cao chưa có người nối nghiệp, đêm mộng thấy Quan Âm Bồ Tát vời Vua lên đài vàng, ẵm tiên đồng ban cho. Tỉnh mộng, Vua sai xây chùa ở phía tây làng để thờ Quan Âm Bồ-tát, đổi niên hiệu là Diên Hựu”.(1)

Như nội dung trong sách có viết thì ngôi chùa được bắt đầu xây dựng từ thời nhà Lý, trong một giấc mơ của Vua Lý Thái Tông về Quan Âm Bồ Tát nên vua sai cho xây dựng chùa để thờ Phật Quan Âm và đặt tên là Diên Hựu. 

Ngoài ra theo cuốn sách Đại Việt sử ký toàn thư đã viết :“[Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 6 [1049]. (Từ tháng 3 về sau, thuộc niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1; Tống Hoàng Hựu năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, đổi niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1. Mùa đông, tháng 10, dựng chùa Diên Hựu. Trước đây vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy nói với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá như đã thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi vòng lượn chung quanh tụng kinh cầu vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu”.(2)

Nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa cổ Trần Trọng Dương, vào thời nhà Lý chùa có tên là Diên Hựu Tự chứ không phải là chùa Một Cột. Và ông cho rằng “Đây có thể là một cấu kiện chịu lực, hoặc chỉ là một thành phần trang trí thuần túy. Kiến trúc một cột không phải là “chùa Một Cột” mà chỉ là một stupa – dạng tháp thờ Phật đời Lý (hoặc được gọi là Liên Hoa Đài như hoành phi và câu đối, hoặc Nhất Trụ tự như bi ký đời sau ghi). Tháp một cột này không phải là một đơn nguyên kiến trúc phụ nằm ở phía sau chùa như hiện nay mà nằm ở trung tâm của chùa Diên Hựu. Tháp một cột khi đó có chức năng tâm linh quan trọng nhất, giống như tam bảo, thượng điện trong các tự viện đời sau. Tháp một cột không phải nằm giữa ao Linh Chiểu (như Toàn thư ghi nhầm) mà là ao Linh Chiêu. Ngoài ao Linh Chiêu không phải là bao lơn đá (mới được xây năm 1923 bởi Viện Viễn đông Bác cổ Pháp), mà là hành lang có mái (hoàn lang, họa lang) bọc xung quanh hồ”.(3) Ông đã có những mô phỏng 2D,3D về kiến trúc về lịch sử của ngôi chùa này, đây là cả quá trình 10 năm nghiên cứu và tổng hợp các giả thuyết về giới khoa học ( khảo cổ học, mỹ thuật học, lịch sử, văn hiến học, biểu tượng phật giáo..) của ông. 

Thác bản Viện Nghiên Cứu Hán Nôm- Viện Viễn Thông Bắc Cổ ( EFEO)- Viện Cao Học Thực Hành  đã viết :“Nước Việt xưa thuộc Trung triều Long Biên là đô hộ phủ vậy. Trong phủ có một cái hồ vuông, đời nhà Đường niên hiệu Hàm Phong nguyên niên, Cao Biền đến đây cai trị và cho dựng một trụ đá trong hồ này và làm một cái cầu bằng ngọc ở bên trên trụ, đặt tượng phật Quán âm để thờ phụng. Địa khí chung đúc anh linh, những cầu đều ứng. Đến thời nhà Lý dựng đô ở nơi này, cũng theo đó càng thêm kính ngưỡng rất là linh dị. Khi Lý Thánh Tông chưa có hoàng tử thường đến lễ cầu tại đây, một đêm nằm mộng thấy Phật Quán Âm dắt lên trên lầu, ôm một đứa bé đặt vào lòng vua, trong tháng này hoàng thái hậu liền mang thai hoàng tử, nhà vua bèn tu dựng thêm một tòa chùa Diên Hựu ở bên phải chùa Nhất Trụ/ Một Cột để mở rộng việc thờ tự và tôn sùng. Trải ba bốn triều đại trùng tu đều theo đó đều được hưởng phúc báo vô cùng. 

Ngày 15 tháng 6 niên hiệu Cảnh Trị. 

Hòa thượng tỷ khưu Lê Tất Đạt kính cẩn ghi chép ”.(4)

Chúng ta có thể hiểu rõ nội dung có trong văn bia, trước khi thời lý đến xây dựng kinh đô thì trên mảnh đất đó đã hình thành hồ nước từ trước đó, trụ đá và lầu ngọc ở giữa hồ chính là do thời Đường xây dựng để thờ Quan Âm. Sau khi Phật Quan Âm xuất hiện trong giấc mơ của Vua Lý Thánh Tông, Hoàng hậu đã có mang thời gian đó. Vì Điều này vua đã tu sửa mở rộng thêm chùa Diên Hựu bên cạnh chùa Một Cột để thuận tiện thờ cúng, chứ không phải là người xây dựng lên chùa Một Cột. 

Tuy nhiên những nguồn nghiên cứu này chưa có đủ cơ sở thuyết phục để có thể đi đến kết luận.  Nhưng đều có một điểm chung đó là tất cả các nhà nghiên cứu đều đưa ra tư liệu cho rằng chùa Một Cột được xây dựng từ thời nhà Lý hoặc nhà Đường. Cho đến thời điểm bây giờ, các nhà nghiên cứu vẫn đang tiếp tục tìm tòi những dấu ấn lịch sử của chùa Một Cột, chúng ta hoàn toàn có thể đọc và tìm hiểu các tư liệu trên phương diện tham khảo. 

Các giai đoạn trùng tu 

Năm 1080 Vua Lý Nhân Tông cho đúc chuông lớn treo ở chùa, sau khi đúc xong vì chuông quá nặng đã không thể treo lên và phải để xuống đất. có thể do chuông để dưới đất nên khi đánh chuông không kêu,  sau đó vua sai quân mang chuông đó ra ruộng của chùa. Khi mùa nước dâng ruộng bị ngập, nhiều rùa đã chui vào và sống tại đó nên mới có tên gọi là chuông Quy Điền và ruộng Quy Điền. 

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi rõ nội dung “Canh Thân, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 5 [1080], (Tống Nguyên Phong năm thứ 31). Mùa xuân, tháng 2, đúc chuông lớn cho chùa Diên Hựu. Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, bèn đem bỏ ở Quy Điền [ruộng rùa] của chùa. Ruộng ấy, thấp ướt, có nhiều rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền”.(5)

Năm  1105 vào mùa thu tháng 9 Vua Lý Nhân Tông cho xây dựng 2 ngọn tháp ở chùa Diên Hựu, và vua cho đào hồ ở quanh toà sen được gọi là hồ Linh Chiểu.  Tổng diện tích khu chùa thì vua cho mở rộng thêm kiến trúc để thuận tiện hơn cho việc thờ cúng, bên ngoài hành lang vua sai đào thêm hồ gọi là hồ Khang Bích. 

Văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (năm 1121) đời vua Lý Nhân Tông. Văn bia mô tả rất kỹ kiến trúc chùa trong lần trùng tu lớn trước đó 16 năm như sau:“Mở rộng chùa Diên Hựu ở viên lâm phía tây cấm thành, noi theo quy chế cũ trước đây, nhưng thực hiện những mưu tính mới theo ý vua, đó là đào ao sen Linh Chiểu, giữa ao vọt lên một cột đá. Trên đỉnh cột đặt hoa sen ngàn cánh, trên hoa đặt vững một tòa điện tía. Trong điện đặt tượng Quan Âm dát vàng. Bên ngoài ao có hành lang vẽ vây quanh, bên ngoài vòng hành lang là ngòi nước biếc, mỗi mặt đều bắc cầu vồng đi thông vào. Nơi cây cầu ở sân phía trước, hai bên đầu cầu có hai ngọn bảo tháp lợp ngói lưu ly”.(6)

Năm 1249 triều đại nhà Trần giữ ngôi, theo như Đại việt Sử Ký Toàn Thư đã Viết “Kỷ Dậu, [ Thiên Ứng Chính bình] năm thứ 18 [1249], (Tống Thuần Hựu năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, trùng tu chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ”.(7)  Như vậy cụm kiến trúc của Chùa Diên Hựu đã được vua Trần Thái Tông  xây dựng lại trên nền móng cũ, về sau thi các kiến trúc dần dần mất đi chỉ còn lại ngôi chùa trên cột đá. Có thể hiểu rằng đợt tu sửa của triều đại nhà trần là hầu như sửa hoàn toàn cấu trúc ban đầu của ngôi chùa. 

Năm 1838 chùa Diên Hựu được tu sửa  điện thờ, hành lang, tam quan, gác chuông nhờ vào tổng đốc Hà Ninh Đặng Văn Hoà tổ chức quyên góp và công đức khắp nơi vì thấy chùa bị hư hỏng nặng nên nhờ ơn của ông mà chùa Diên hựu đã được phục hồi lại tất cả đều trang nghiêm. 

Năm 1847 Vương Triều Nguyễn cai trị,  vào thời điểm đó quan Vinh lộc đại phu Hiệp biên Đại học sĩ là Hữu Đô ngự sử đã đứng ra tu sửa. Sau đó Bố chính Tôn Thất Giao đã xin để được đúc chuông mới và Bố chánh Tôn Thất Hàm trùng tu xây thêm sàn gỗ hình bát giác để đỡ tòa sen và trang trí thêm nhiều điêu khắc trạm trổ cho ngôi chùa. 

Cột mốc quan trọng đánh dấu sự mất mát rất lớn của nền văn hoá Việt Nam, sự sụp đổ của một di tích lịch sử dưới tay của kẻ thù, vào tháng 9 năm 1954 thực dân Pháp trước khi rút quân rời Hà Nội đã cho đặt thuốc nổ để phá huỷ chùa Một Cột. Sau 1 tiếng đồng hồ, tất cả chỉ còn lại trụ đá giữa hồ và những thanh nâng đỡ của toà sen, ngôi chùa tan nát. 

Trải qua các đợt trùng tu kể trên chúng ta phải chịu tổn thất quá lớn mà kẻ thù gây ra, sau sự kiện này xảy ra Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Bộ văn hoá đã cho xây dựng phục hồi lại theo mô phỏng kiến trúc thời Nguyễn, và đến năm (1955) thì hoàn thành. 

Đến năm 1996 Bộ văn hoá thông tin đã trùng tu lại khu vực chùa chính và nhà tổ, kiến trúc của chùa được giữ nguyên vẹn cho đến hiện tại. 

Kiến trúc 

Kiến trúc của ngôi chùa rất độc đáo, ở giữa hồ được xây dựng thành một trụ đá, trên trụ đá ấy xây một ngôi chùa trông rất giống với hình bông hoa sen nổi trên mặt nước, chính vì vậy ngoài những cái tên đã kể ở trên thì ngôi chùa còn được gọi với cái tên rất gần gũi là Liên Hoa Đài (đài hoa sen). Nơi đây đã trở thành biểu tượng của dân tộc, là di tích được cả thế giới biết đến.  

Trụ đá 

Điểm độc đáo nhất của chùa Một Cột đúng như cái tên của nó, kiến trúc chùa được xây duy nhất một cột trụ đá. Một nửa của trụ được xây sâu dưới lòng đất chìm dưới hồ, một nửa trồi nên mặt nước, diện tích của trụ đá là 1,2m chiều dài la 4m. Nhìn bằng mắt thường ta có thể thấy rằng trụ đá đó có 2 khối trụ gắn liền vào nhau, có thể là do quá trình trùng tu ở hai thời điểm khác nhau nên nó hình thành nên hai trụ. Phần trụ phía trên được gắn với những thanh gỗ toả ra xung quanh là giá đỡ chịu lực cho tòa đài sen và nhìn giống với cái cuống của bông hoa sen. 

Nhiều giả thuyết đã cho rằng chùa Một Cột là dạng tháp Một Cột được xây dựng theo mô hình cột trụ là chịu lực. Và nhắc đến chùa Một Cột đã có nghiên cứu cho rằng dạng tháp Một Cột cũng đã được thực hiện với chùa Dạm, cũng có cấu trúc dạng một cột với trụ đá như chùa Một Cột. 

Liên Hoa Đài (đài hoa sen)

Bên trên cột trụ đá là ngôi chùa nhỏ nó được ví như bông hoa sen trồi lên mặt nước, tượng trưng cho sự tinh khiết và cao quý của nền Phật Giáo. Bao quanh tòa đài sen đó là hồ nước, cấu trúc xây theo hình vuông, thân nhà làm bằng chất liệu gỗ sơn màu đỏ được đắp những hoa văn hoạ tiết rất tinh tế và kỳ công. 4 góc mái của Tòa đài sen này đều cong lên và được đắp hình đầu rồng, phía trên mái nhà được đắp 2 tượng rồng quay mặt vào nhau và ở giữa có hình viên ngọc. Lợp ngói đỏ tuy đã trải qua chiều dài lịch sử nền màu ngói đã bị phai mờ do vậy càng tạo nên nét cổ kính của ngôi chùa. 

Tượng Phật Quan Âm

Trong Toà Đài Sen có bức tượng Phật Quan âm nghìn mắt nghìn tay tạo lạc và được sơn màu vàng, ngồi trên bông hoa sen bằng gỗ, toát lên vẻ cao quý thiêng liêng của Phật Quan âm. Xung quanh được bày biện rất nhiều những vật dụng thờ cúng, trang trí, hoành phi câu đối. 

Bậc thang lên Liên Hoa Đài

Để bước vào Toà đài sen chúng ta sẽ phải đi qua những bậc thang hình vòm cung được nối liền từ sân bắc qua hồ nước bên dưới để dẫn vào bên trong ngôi chùa. Xung quanh bậc thang được xây thành gạch để đảm bảo an toàn cho người dân lên đó cúng lễ, hai bên thành được đắp hai trụ hai bên mỗi bên có gắn hình bông hoa sen tạo nên sự hài hoà cho tổng thể ngôi nhà. 

Nhìn tổng quan bên ngoài ta thấy Liên Hoa Đài này được nằm giữa hồ (hồ Linh Chiểu), dưới hồ cũng được trồng hoa sen, xung quanh được xây dựng tường bao trang trí hình khối vuông. 

Có thể nói đây là những nét độc đáo về kiến trúc chùa Một Cột từ thời Lý, nó mang lại giá trị sâu sắc về nền văn hoá, lịch sử của dân tộc. Là công trình kiến trúc bao gồm điêu khắc, chạm vẽ, hội hoạ kết hợp lại tạo thành một địa điểm tâm linh, biểu tượng của Thủ Đô. 

Cảnh quan

Trong khuôn viên chùa Một Cột chúng ta dễ dàng nhận thấy vóc dáng của cây cổ thụ nằm ở phía sau. Đó chính là cây Bồ đề mang ý nghĩa lịch sử rất đặc biệt, theo lịch sử ghi chép lại thì cây Bồ đề hiện tại là cây Bồ Đề nơi Thích Ca tu thành chính quả được Chính Phủ Ấn Độ tặng cho Chủ Tịch Hồ Chí Minh vào năm 1958 trong một chuyến sang thăm nước bạn. Khi về nước Bác đã đem đến chùa Một Cột để trồng ngay phía sau Tòa đài sen, do vậy đây được coi là tình hữu nghị giữa nước ta và nước Ấn Độ, biểu tượng cho tình yêu mà nước bạn đã dành cho nước Việt Nam là niềm tự hào của dân tộc. 

Trải qua nhiều thập kỷ vóc dáng của cây Bồ đề rất cao lớn, gốc rễ đã ăn sâu vào đất, thân hình phải 2-3 người ôm. Những tán cây rất tươi tốt đã toả lan rộng mang lại bóng mát và mang ý nghĩa rất quan trọng trong chùa Một Cột. Đây được xem là cây linh thiêng trong nền Phật Giáo. 

Di tích Quốc Gia

Chùa Một Cột (chùa Diên Hựu) là nơi được khách thập phương đến từ trong nước và ngoài nước đến để cầu lễ, là di tích lịch sử có kiến trúc độc đáo nhất Thủ Đô Hà Nội. Năm 1962 chùa đã được Chính Phủ Việt Nam công nhận là di tích lịch sử – văn hoá của nước ta. 

Theo trang Báo Điện Tử Chính Phủ :“Ngày 4/5/2006, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập chùa là “Kỷ lục Việt Nam” và đề cử đến Tổ chức Kỷ lục châu Á. Sau thời gian thẩm định để xác lập, ngày 10/10/2012, tại Faridabad (Ấn Độ), Tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác lập kỷ lục châu Á: “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất” cho chùa Một Cột”.(8)

Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, hình ảnh chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5.000 đồng của Việt Nam. Chùa được mở cửa chào đón khách đến tham quan cũng lễ từ 7 giờ sáng đến 18h chiều hàng ngày, ngoài ra cứ đến ngày mùng 1 và ngày rằm nhà chùa sẽ tổ chức lễ cầu cúng, vì vậy trong những ngày này khách tham quan có thể đến để dự và khấn lễ tại đây. 

Chú thích: 

  1. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), Chùa cổ Việt Nam, Nxb Thanh Niên ( 2006), tr 152.
  2. Đại việt sử ký toàn thư, quyển II, Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội (1993), tr 102.
  3. Trần Trọng Dương, Từ bi ký đến thực tế ảo: hành trình 10 năm (2020).
  4. Viện Nghiên Cứu Hán Nôm- Viện Viễn Thông Bắc Cổ (EFEO)- Viện Cao Học Thực Hành.
  5. Đại việt sử ký toàn thư, quyển III, Nxb  Khoa Học Xã Hội Hà Nội (1993), tr 112.
  6. Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi, Thác bản hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
  7. Đại việt sử ký toàn thư, quyển V, Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội (1993), tr 169. 
  8. Báo Điện Tử Chính Phủ.

Tham khảo

  1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa Học Xã Hội – Hà Nội (1993).
  2. Báo Điện Tử Chính Phủ.
  3. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), Chùa cổ Việt Nam, Nxb Thanh Niên (2006).
  4. Trần Trọng Dương, Từ bi ký đến thực tế ảo: hành trình 10 năm (2020).

 

4.7/5 (3 bình chọn)
Chia sẻ
Checkin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner app chỐn thiÊng 3 (60x90)