Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ là ai?
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tam tòa Thánh Mẫu là ba vị nữ thần cai quản ba miền: miền trời, miền rừng núi và miền sông nước. Trong đó, Mẫu Thoải Phủ chịu trách nhiệm cai quản mọi miền sông nước, là người tạo ra những vùng ao, đầm, sông, biển và điều hòa mưa gió, thời tiết ở đất trời. Trên ban thờ Tam Thoải Thánh Mẫu, Mẫu Thoải mặc xiêm y màu trắng, ngồi bên trái Thượng Thiên Thánh Mẫu. Chữ “Thoải” trong tên Mẫu cũng phát âm lái từ chữ “thủy” mang ý nghĩa là nước mà ra.
Là vị Thánh Mẫu được nhân dân ta thờ cúng từ rất lâu đời, bà vô cùng linh liêng và được nhân dân khắp nơi tôn kinh. Ngoài danh hiệu Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ, Mẫu Thoải còn có một số danh hiệu khác được biết tới như: Mẫu Đệ Tam Thủy Cung; Thủy Tiên Công Chúa; Thủy Cung Thánh Mẫu; Xích Lân Công Chúa; Động Đình Công Chúa; Ngọc Hồ Thần Nữ.
Thần tích về Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Quanh vị Thánh Mẫu này lưu truyền rất nhiều huyền tích về nguồn gốc của bà, được thể hiện qua các bản văn Mẫu Thoải hay qua các tác phẩm Liễu Nghị truyền thư của Lý Triều Uy hay trong câu chuyện phù trợ vua Lý, Trần và Lê chống giặc xâm lược ngoại xâm.
Là mẹ của Lạc Long Quân
Ngay trong đầu cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên đã có đoạn viết như sau:
Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua Kinh Dương Vương. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nổi ngôi. Vua cổ nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (Xét: Đường kỷ chép: thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi). Lạc Long Quân Tên hủy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương.
Dị bản xuất xứ làng A Lữ, kể rằng: Thuở trời đất mới mở mang, rừng núi sông hồ vẫn còn hoang vu, Kinh Dương Vương thường đi chu du khắp nơi. Một hôm tới vùng sông nước, đầm lầy, gặp người con gái của Long Vương ở Động Đình Hồ. Kinh Dương Vương đem lòng yêu mến và lấy nàng làm vợ, sau sinh ra Sùng Lãm, chính là Lạc Long Quân, thuỷ tổ Bố Rồng của Lạc Việt.
Cũng cốt chuyện trên, dân vùng Ngàn Hống (Nghệ An) kể rằng: Lúc mới mở nước, Kinh Dương Vương đi xem cảnh núi sông, tìm nơi đất lành để xây dựng kinh đô. Khi về tới phương nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy cảnh núi non hùng vĩ, 99 ngọn cao vút, trấn trên tiên Hội, có thể rồng vây hổ chầu, Dương Vương lấy làm vừa ý, bèn sai đắp thành dưới núi, xây dựng lâu đài thành lũy… Công việc tạm xong, Vương lại cưỡi thuyền trở ra phương Bắc, tiếp tục cuộc tuần du. Thuyền của vua theo dòng Thanh Long đến gần cửa Hội, bỗng thấy một người con gái mặt hoa da phấn, tóc đen mườn mượt, má đỏ hây hây từ dưới nước nổi lên. Sau khi tự xưng là Thần Long, người con gái ấy trở thành vợ vua Kinh Dương Vương và là mẹ của Lạc Long Quân.
Với hai dị bản truyền thuyết dân gian dẫn trên, các sách cổ lục, sử ký của các triều đại phong kiến cũng đã từng ghi chép lại. Kỷ Hồng Bàng thị trong phần Ngoại kỷ của Đại Việt sử ký toàn thư viết:
Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, gọi tên là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.
Trong Lĩnh Nam chích quái còn kể thêm được chi tiết:
Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái vua hồ Động Đình là Long Vương, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân.
Hai bộ sử trên đều thống nhất rằng: Lạc Long Quân là giống Rồng. Đến Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí – Quyển VI phần Nhân vật chỉ coi Kinh Dương Vương là dòng dõi Thần Nông, vua khởi đầu của nước Việt ta. Khi trước cháu ba đời Thần Nông là Đế Minh, đi tuần thú ở biển phía Nam, gặp nàng Vụ Tiên rồi lấy làm vợ, đẻ con là Lộc Tục. Lộc Tục có Thánh Đức, Đế Minh yêu lắm, muốn lập là con nối, nhưng Lộc Tục cổ nhường cho anh là Nghi; Đế Minh liền phong cho Lộc Tục ở đất Việt (về miền nam), tức là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân, đẻ ra Lạc Long Quân.
Như vậy là sáng tỏ, vợ của Kinh Dương Vương tức là mẹ của Vua Hùng thứ nhất; ba bộ sử có giá trị nhất của Việt Nam thời xưa đã ghi nhận. Tuy nhiên, đương đại lịch sử của các nhân vật truyền thuyết và ngay cả đến thời các sử gia, tên đất, tên người chưa có sự phân định như còn thấy từ sau thế kỷ X. Lời ca hát chầu văn cũng nhắc đến địa danh Động Đình:
Trạng giang biên dòng dòng lai láng
Nguyệt lầu lầu soi sáng Nam minh
Ngài con vua thủy Động Đình
Cổ tiên thần nữ giáng sinh đền rồng.
Tài gồm đủ công dung ngôn hạnh
Nết ôn hòa ưa tính thiên nhiên.(Văn Mẫu Thoải – Tài liệu sưu tầm ở đền Đồng Bằng – Thái Bình, 1972)
Truyền thuyết Mẫu Thoải ở Đền Dùm – Tuyên Quang, Đền Xâm Thị và Đền Dầm- Thường Tín – Hà Nội:
Theo truyền thuyết này thì Mẫu Thoải cũng xuất thân là con gái của Vua Thủy Tề, nhưng không thấy nhắc đến hai vợ chồng sinh ra Lạc Long Quân:
Mẫu Đệ Tam vốn là con gái Vua Thủy Tề, ở chốn Long Giai. Bà kết duyên cùng Kính Xuyên (là con Vua Đất). Khi Kính Xuyên đi vắng, chầu ở nhà khâu vá, chẳng may kim đâm vào tay chảy máu, chầu lấy tấm vải lụa trắng để thấm máu. Thảo Mai, tiểu thiếp của Kinh Xuyên, vốn đã sinh lòng đố kị từ lâu, nhân cơ hội đó giấu tấm lụa đi, đến khi Kính Xuyên về, Thảo Mai lấy ra rồi vu oan cho bà ở nhà đã cắt máu thề nguyền để tư thông cùng kẻ khác. Kính Xuyên không nghe lời thanh minh, ghen tuông mù quáng, một mực bắt đóng cũi bỏ bà lên rừng cho thú dữ ăn thịt. Ở nơi rừng núi, có lúc bà hiện hình thành long xà, khi thành mỹ nhân, trút sâu với cỏ cây, hoa lá. Lòng từ bi của Tiên Chúa khiến muôn loài đều quý mến, dâng hoa quả nước uống, không một loài ác thú nào xâm hại đến bà.
Cũng hay cho con tạo hoá xoay vần, đến một ngày kia thì bà gặp được Liễu Nghị, vốn là thư sinh, nhờ tập ấm cha mẹ để lại nên đèn sách chuyên cần. Hôm đó, trên đường đi thi thì chẳng may bị lạc vào nơi bà bị đày ải. Thấy bà vậy, Liễu Nghị đến hỏi han, sau khi biết rõ sự tình, Liễu Nghị nhận giúp đỡ bà. Bà viết thư giao cho Liễu Nghị kèm với một kim thoa nhờ chàng mang về đến chốn Long Cung để vua cha thấu hết sự tình rồi sẽ định liệu sau.
Theo lời bà, Liễu Nghị ra đến sông Ngân Hán, là mái Long Giai ngoài biển Đông, thấy có cây ngô đồng, Liễu Nghị rút cây kim thoa, gõ vào cây ba lần. Tức thì gió giật mưa sa, biển động ầm ầm, giữa dòng thấy hiện lên đôi bạch xà, Liễu Nghị bèn trình bày mọi việc, đôi bạch xà vâng lệnh đưa Liễu Nghị xuống Thủy Cung. Tại đây, Liễu Nghị trao cho Vua Thủy Tề bức thư và kể hết mọi chuyện. Vua cha tức giận, sai người đi bắt Kính Xuyên và Thảo Mai, còn truyền cho Trưởng Tử Xích Lân lên đón Tiên Chúa hồi cung. Sau đó, bà được rước về Thoải Phủ, kết duyên cùng Liễu Nghị, người được giao cho chức Quốc Tế Thủy Quan. Còn Kính Xuyên và Thảo Mai thì bị gia hình chịu tội.
Trong văn thỉnh Mẫu Thoải cũng có một đoạn nhắc đến giai thoại này:
Thỉnh Mời Đệ Tam Thánh Tiên
Xích Lân Long Nữ Ngự Miền Thoải Cung
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
Thảo Mai tiểu thiếp gia lòng gieo oan
Kính Xuyên chẳng xét ngay gian
Vàng mười lỡ để lầm than sao đành
Lòng trời thương kẻ ngay lành
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…
Mẫu Thoải là vợ của Vua Thủy Tề
Ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Mẫu Thoải được thờ là Thành hoàng và có sắc thượng phong đề “Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương”. Theo thần phả của làng: Mẫu Thoải là vợ của vua Thủy Tề, là Hoàng hậu ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn Mẫu trông coi các việc ở sông, suối. Do sông suối có ở khắp nơi nên Mẫu cũng có mặt ở khắp nơi, nhất là tại các bến sông lớn.
Hóa thân của 3 công chúa của Lạc Long Quân và Âu Cơ
Theo thuyết này, Lạc Long Quân đã giao cho 3 công chúa cai quản sông biển nước nam là: Thủy tinh Động đình Ngọc nữ Công chúa, Hoàng Bà Đoan khiết Phu nhân và Tam giang Công chúa. Ba bà đóng dinh cơ ở sông Nguyệt Đức và có nhiệm vụ coi sóc các sông nước, luồng lạch, dạy dân chế tạo thuyền bè và đan các thứ lưới bắt cá, chế ngự các vị thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này xâm hại đến hạ giới. Các Mẫu còn làm mưa và giúp dân chống lụt; cứu giúp các tướng lĩnh hay nhà vua đi chinh chiến dẹp giặc.
Truyền thuyết Mẫu Thoải là hoàng hậu của Vua Thủy Tề thì chỉ giới hạn ở một làng. Truyền thuyết Mẫu Thoải là hóa thân của 3 công chúa của Lạc Long Quân không phải là thuyết thuyết phục lắm bởi cai quản sông biển ao hồ là của Hoàng cung Thủy Tề. Nếu có thì đây coi như một hóa thân của Mẫu Thoải mà thôi. Truyền thuyết về Mẫu Thoải là con gái của Vua Thủy Tề (Long Vương) có lẽ hợp với tục thờ Mẹ Sông Nước trong tín ngưỡng thờ Thoải Phủ của dân tộc Việt Nam từ muôn đời nay. Truyền thuyết này được phổ biến ở mọi miền đất nước. Như vậy, có thể nói tích Mẫu Thoải là con gái Long Vương được coi là tích có tính thuyết phục hơn cả.
Những lần hiển linh phù trợ các đời vua
Mẫu Thoải còn đi vào sử sách nước Việt như một vị thần phò trợ triều đình đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Phù trợ Trần Hưng Đạo
Vào nhiều năm trị vì của vua Trần Nhân Tông, khi quân Nguyên xâm lược nước ta do hai tướng Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cầm đầu kéo 10 vạn quân hòng chiếm đánh nước ta, vua Trần Nhân Tông lệnh Hưng Đạo Đại Vương đem quân đánh giặc. Khi đi ngang qua sông Xâm Miện thì trời ông đã sẩm tối, ông lệnh cho toàn quân dừng chân dựng trại lên bãi, còn bản thân mình thì vẫn ở lại trên thuyền. Nửa đêm, ông nằm mơ thấy một cô gái với trang phục màu trắng, mang đai ngọc cưỡi kim long tới trước mặt ông và nói:
Thiếp là con gái của Long Vương tên Thủy Tinh Ngọc Dung Công Chúa theo lệnh vua cha tới đây trợ Ngài tiêu diệt giặc ngoại xâm. Ngài hãy đem toàn quân truy đuổi giặc, thiếp sẽ theo sau trợ giúp.
Khi tỉnh lại, Hưng Đạo Đại Vương biết được có thần linh phù hộ, ông lệnh toàn quân xông lên giao chiến với giặc. Trong lúc, đôi bên giao tranh bỗng có cơn gió thổi mạnh, nước sông nổi sóng lớn cuồn cuộn làm thuyền của giặc bị nhấn chìm tơi tả. Sau khi chiến thắng trở về, ông đã kể lại toàn bộ sự việc được báo mộng cho vua, nhà vua đã sai người về Xâm Miện xây miếu (nay là đền Dầm) cảm tạ và ban sắc phong như sau:
Hoàng Long Tĩnh Mạch, Đoan Trang
Anh Linh Thục Diệu Phu Nhân Trung Đẳng Thần.
Phù trợ Vua Lê Thánh Tông
Vào thời vua Lê Thánh Tông, vào lúc nhà vua đem quân đánh Chiêm Thành. Khi đi qua khu vực sông Lèn bỗng có một trận gió lớn nổi lên, vua sai người lập đàn để cầu xin thần linh tương trợ. Mẫu hay tin có người xin giúp đỡ đã sai một nữ tướng đến trấn và sau đó, mặt sông bỗng trở lại tĩnh lặng. Sau khi chiến thắng trở về, vua đã phong tặng cho Mẫu danh hiệu Thủy Phủ Thần Nữ để tưởng nhớ công ơn của bà. Ngày nay, bên bờ sông Lèn có đền Hàn Sơn là một trong những ngôi đền thờ phụng Mẫu Thoải rất nổi tiếng.
Phù trợ vua Lý Thái Tổ
Tại vùng trung du Bắc Bộ nước ta khi ấy thường hay có lũ lụt. Khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long đã ngay lập tức thực hiện việc trị thuỷ. Tuy nhiên, tận đời vua Lý Thái Tông mới hoàn thành, các đoạn đê được gắn nối vào nhau trở thành trở thành một hệ thống đê điều vững chãi như hiện nay. Trong những năm hệ thống chưa hoàn thành, việc lũ lụt vẫn xảy ra liên miên, gây rất nhiều khó khăn trong việc ổn định mùa màng và đời sống của nhân dân.
Lúc đó, Thủy Cung Thánh Mẫu đã sai thần tướng, binh lính của mình tới các vùng ven kinh thành Thăng Long để âm thầm trợ giúp việc đắp đê chống lũ, cứu dân. Ngày nay, tại các địa danh cổ như làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ… vẫn còn các bút tích chép lại của thần tích này.
Trợ giúp vua Lê Thần Tông
Dưới thời Lê Thần Tông, trong những mùa lũ lụt, một lần nước sông Hồng dâng lên rất cao, ngập cả vào Yên Phụ, vua đã phải đích thân làm lễ tế cáo trời đất. Khi ấy, Mẫu Thoải đã lập tức ứng nghiệm, hiển linh và giúp chống lụt và xua đuổi thủy quái. Sau này, theo một số câu chuyện, bà thường hiển linh phù hộ cho những người đi biển khỏi sóng to gió lớn nên được nhân dân biết ơn, lập đền thờ ở khắp nơi cửa sông, cửa biển.
Địa điểm thờ tự
- Đền Hàn Sơn tại xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa là đền thờ chính của Mẫu.
- Đền Dầm còn có tên gọi khác là Xâm Xương Linh Từ tại thôn Xâm Dương, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội.
- Đền Bắc Biên tên khác là Phúc Xá Linh Từ tại làng Bắc Biên, phường Ngọc Thủy, quận Long Biên, Hà Nội.
- Ngoài ra ở nhiều nơi trên đất nước còn có nhiều ngôi đền thờ Mẫu Thoải khác, thường ở các vùng dọc sông nước. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là nhóm đền Hạ (đền Tam Cờ), đền Ỷ La, và đền Thượng (đền Dùm) tại Tuyên Quang, một trong những nơi phát tích của bà.
Khánh tiệc Mẫu Đệ Tam vào ngày 10/6 âm lịch hàng năm.
Tham khảo
- Wikipedia, Thủy cung Thánh Mẫu
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư – Ngoại Kỷ – Quyển I, Kỷ Hồng Bàng Thị – Kinh Dương Vương.
- Lên đồng – Hành trình của thần linh và thân phận.
- Sách Nữ thần Việt Nam.