Thiền sư Pháp Thuận (914 – 990)

Thiền sư Pháp Thuận (914 – 990)

Thông tin cơ bản

Tiểu sử


Thiền sư Pháp Thuận (914 – 990) tên thật là Đỗ Pháp Thuận, là thiền sư đời thứ 10, dòng Tì-ni-đa-lưu-chi. Sư trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Không biết ông là người ở đâu.

Sư họ Ðỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.

Ðang vào lúc nhà Tiền Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho sư. Ông từng giữ công việc cố vấn quan trọng dưới triều Tiền Lê.

Chân tu mọi lối


Theo sách Thiền Uyển Tập Anh, tài liệu được coi là cổ nhất của Phật giáo Việt Nam còn lại tới hôm nay,  sau khi đắc pháp, Thiền sư Pháp Thuận đã đạt được trình độ rất cao về độn số và nghệ thuật phù sấm. Và ông đã sử dụng rất điệu nghệ những năng lực tâm linh này của mình để giúp vua Lê Đại Hành vượt qua mọi trắc trở đương thời để, như Đại Việt sử ký toàn thư nhận định, “trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình”.

Cũng Thiền Uyển Tập Anh đã đánh giá Thiền sư Pháp Thuận là một nhà bác học, giỏi về nghệ thuật và thi ca, có tài phụ tá nhà vua trong việc chính trị và thông hiểu tình hình thực tại của đất nước (bác học công thi, phụ vương tá chi tài, minh đương thế chi vụ). Khi mọi sự đã thành, Thiền sư Pháp Thuận từ chối mọi vinh hoa bổng lộc của triều đình để tiếp tục sống đời hành đạo thanh tịnh. Chính vì thế mà, cũng theo Thiền Uyển Tập Anh, vua Lê Đại Hành “rất kính trọng ông, không gọi tên mà chỉ xưng hô là Đỗ Pháp sư mà thôi”. Thậm chí nhà vua còn đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Thiền sư…

Là một vị chân tu uyên bác và trí tuệ sáng láng, Thiền sư Pháp Thuận đã từng giúp vua Lê Đại Hành thực hiện nhiều sứ mệnh phức tạp cả trong việc trị quốc lẫn công tác ngoại giao. Và tình huống được coi là gây ấn tượng mạnh nhất trong đối ngoại của Thiền sư Pháp Thuận đã là lần cải trang làm “giang lệnh” (người coi sông) để đón tiếp sứ giả nhà Tống là Quốc Tử giám bác sĩ Lý Giác năm 987.

Tác phẩm


Quốc Tộ (Vận Nước) là bài thơ nổi tiếng của thiền sư Pháp Thuận, được đưa vào chương trình giảng dạy ngữ văn 10 trung học phổ thông. Hiện nay đã có khá nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn học, ngôn ngữ đã nhất trí với nhận định: “Bài thơ Quốc Tộ là tác phẩm mở đầu cho dòng văn học viết Việt Nam”. Hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với một giai thoại, có lần Vua Lê Đại Hành đem vận nước dài ngắn hỏi nhà Sư, người đáp:

Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư đạo các
Xứ xứ tức đao binh.

Dịch nghĩa:

Vận nước như dây mây leo quấn quýt,
Ở cõi trời Nam [mở ra] cảnh thái bình.
Vô vi ở nơi cung điện,
[Thì] khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.

Tạm diễn giải ý nghĩa: 

Vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, làm thế nào để cho vận mệnh quốc gia được dài lâu?

Thiền sư trả lời: Vận nước như mây quấn. Ta phải giữ gìn đất nước nầy như thế quấn của dây mây, một sợi mây tuy có dẻo dai nhưng vẫn dễ đứt, dễ gãy nếu ta biết cách bẻ, còn nhiều dây mây quấn lại thành bó khó có sức mạnh nào bẻ gãy. Trăm họ hướng về Vua với một lòng tôn kính, vua lấy ý nguyện của dân làm ý nguyện của mình, nỗi khổ của dân cũng là nỗi khổ của mình. Tìm cách hoá giải những xung đột nội bộ của một quốc gia. Liên kết nhân tâm lại với nhau như những dây mây riêng lẻ thành một bó mây. Thiền sư khẳng định: Muốn cho đất nước được yên bình, Vua phải biết cách áp dụng phương pháp, hay là nguyên lý tu dưỡng vô vi nơi triều đình của mình. Vua là thiên tử – con trời – theo quan niệm phong kiến. Vua tượng trưng cho quyền lực, sức mạnh của một thể chế, đế chế. Vua là tối tôn đứng trên thầy và cả người cha sinh ra mình Quân-Sư-Phụ, vậy mà kinh Phật nhắc nhở cẩn thận không kiêu ngạo.

Bài thơ Vận Nước của Thiền sư Pháp Thuận nếu kết hợp với bài thơ Thần “Sông Núi Nước Nam”, có một vị thế hết sức quan trọng không chỉ trong lịch sử văn học mà cả trong lịch sử tư tưởng chính trị và Phật giáo Việt Nam. Nó đã thành công khi đề xuất được hệ thống tư tưởng chính trị hoàn chỉnh để định hướng cho sự phát triển của một hệ thống chính quyền làm chủ đất nước vừa thỏa mãn yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia vừa đáp ứng nguyện vọng của người dân. Kho tàng văn học Việt Nam vẫn còn lưu giữ được những bài thơ chứa đựng được tư tưởng chính trị của Phật giáo Việt Nam như bài Quốc tộ.

Di sản


Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển. Tác phẩm của Sư được lưu hành ở đời có:

  • Bồ-tát Hiệu Sám Hối Văn
  • Thơ tiếp Lý Giác
  • Một bài kệ.

Sư Pháp Thuận cùng với 2 quốc sư Khuông Việt  Minh Không được thờ ở nhiều chùa cổ trong quần thể di tích cố đô Hoa Lư như động Am Tiên, chùa Bà Ngô, chùa Nhất Trụ. Vào đêm 15/1 âm lịch hàng năm tại chùa Nhất Trụ, người dân cố đô Hoa Lư thường tổ chức vịnh thơ để đón tết nguyên tiêu.

Làng Lạng hay còn gọi là làng Ngoại Lãng thuộc xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, cách thành phố Thái Bình khoảng 10km. Làng thờ Đỗ Pháp Thuận Giang Sứ thiền sư, ông sống vào thời Lê Hoàn (980 – 1005) làm thành hoàng làng.

Ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có đường Đỗ Pháp Thuận, nằm trên địa bàn quận 2.

Tham khảo


  • Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, năm 1990
  • Sách “Thiền sư Việt Nam”, Thích Thanh Từ, DL 1999 – PL 2543
Chấm điểm
Chia sẻ
Thiền Sư Pháp Thuận

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)