Thân thế
Chân Dung Tông Diễn (1640 – 1711, 真融宗演), thiền sư Việt Nam, đời pháp thứ 37 Tông Tào Động, từng sống dưới triều Lê trung hưng, còn có hiệu Đại Tuệ Quốc Sư. Sư là pháp tử của Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt và được tôn xưng là Tổ sư đời thứ 2 của Thiền phái Tào Động Việt Nam.
Tiểu sử
Sư sinh năm 1640, tên tục là Tường Đình Khoa, quê ở xã Hương Ngải, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương (nay là thôn Hương Ngải, xã Bình Minh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình). Cha mất sớm, sư sống với mẹ. Mẹ sư tần tảo bán buôn nuôi sư.
Khi sư 12 tuổi, một hôm bà mẹ ra chợ bán hàng, giao cho sư một giỏ cua rồi bảo sư giã ra nấu canh ăn, sư nhìn chúng tuôn ra những hạt bọt như đang khóc, vì thương chúng nên không nỡ giết mà thả chúng đi. Đến trưa mẹ sư về biết chuyện nên cầm gậy đuổi đánh sư, sư còn nhỏ sợ hãi nên chạy đi mãi, từ đó hai mẹ con xa cách nhau.
Cơ duyên và hành trình tìm mẹ
Sau khi chạy khỏi nhà, sư mệt quá ngất đi và được một sư cụ đưa về chùa cưu mang. Từ đó sư ở chùa và rồi xuất gia. Sau khi đã tu hành sáng đạo, một bữa sư tọa thiền, lòng bỗng nhớ đến người mẹ xưa.
Ngài nghĩ mẹ giờ chắc đã già yếu không có ai chăm sóc. Người tu hành từ bỏ đời sống gia đình nhưng ơn sinh thành dưỡng dục thì phải đền đáp. Nghĩ vậy ngài liền về quê cũ tìm mẹ nhưng tìm không ra. Bởi vì sau buổi lỡ giận đánh con đó, mẹ ngài cũng hối hận đi lang thang khắp nơi tìm con.
Đến hơn ba mươi năm sau, người mẹ thì cũng già yếu nên trở về quê cũ và mở một quán nước để làm kế sinh nhai và tiện việc hỏi han tin tức con mình. Suốt mấy chục năm bà chỉ mong tìm được đứa con trai duy nhất để nói một câu xin lỗi, có thế thì mới yên lòng nhắm mắt và gặp lại chồng dưới chín suối.
Về phần mình, sư vẫn dò la tin tức về người mẹ đã ly biệt. Một dịp, sư lại về làng cũ và vào quán trà của bà lão uống nước. Thấy bà lão đầu tóc bạc phơ đang châm trà bán cho khách, đợi đến lúc bà lão rảnh, sư mới hỏi thăm lai lịch. Bà thở dài than:
– Bạch sư cụ, chồng tôi mất sớm, có một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi được mười hai tuổi. Thân già hôm sớm không ai, tôi phải lập quán bán nước trà, kiếm chút ít tiền sống lây lất qua ngày.
Sư hỏi:
– Cụ có muốn vào chùa không, nếu cụ đồng ý thì chúng tôi xin thỉnh cụ về chùa để nương bóng từ bi trong những tháng ngày còn lại.
– Tôi già rồi đâu làm gì nổi mà vào chùa công quả, không làm mà ăn cơm chùa tội lắm.
Sư nói:
– Cụ đừng ngại, ở chùa có nhiều việc, người mạnh gánh nước bửa củi, nấu cơm, người yếu quét sân, nhổ cỏ, miễn có làm chút ít, còn thì giờ tụng kinh niệm Phật là tốt.
Bà lão thấy sư có lòng tốt bèn nói:
– Nếu sư cụ thương giúp kẻ cô quả này, tôi rất mang ơn.
Sư hẹn ít hôm sau sẽ có người đến đón bà về chùa. Về chùa, sư họp Tăng chúng nơi sư đang trụ trì hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa không. Toàn chúng đều đồng thuận mời bà lão về chùa.
Sư cho cất một am tranh trong khuôn viên chùa, cho người đi rước bà lão về ở đây. Mỗi hôm, sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà. Sư luôn luôn nhắc nhở bà tu hành và mỗi sáng đều qua am thăm hỏi bà lão.
Được một thời gian, bà lão lâm bệnh, sư tự thân nấu cháo săn sóc bà lão khiến các đệ tử đều thấy lạ. Biết bà lão không sống được bao lâu, song vì có duyên sự phải đi vắng năm bảy hôm nên trước khi đi, sư dặn dò mọi người: Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng Tăng cứ làm đủ lễ nghi nhưng khi liệm thì đừng vội đậy nắp áo quan, đợi sư về sẽ đậy sau.
Đúng như lời sư đoán, bốn năm hôm sau bà tắt thở, Tăng chúng làm đúng như lời sư dặn, chỉ để bà trong áo quan mà không đậy nắp. Hai hôm sau sư về, nghe bà lão mất còn để trong áo quan. Sư về nhìn mặt lần chót, đi quanh quan tài 3 lần rồi đậy nắp quan lại. Sau đó sư nói to:
– Như lời Phật dạy: Một người tu hành ngộ đạo cha mẹ sanh thiên, nếu lời ấy không ngoa xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời Phật.
Nói xong sư liền cầm tích trượng gõ ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống. Lúc ấy mọi người mới biết bà lão là mẹ của sư.
Hòa thượng vừa dứt tiếng, chiếc quan tài bỗng như có một lực đẩy, từ từ nâng lên cao, sát mái am tranh, lơ lửng. Mọi người đồng loạt quỳ xuống, chắp tay, ngẩng mặt nhìn lên trong một niềm kính ngưỡng tột cùng. Mắt Hòa thượng sáng ngời, an trú trong giây phút hiện tại tuyệt vời, một giây mà đằng đẵng thiên thu.
Tâm hiếu của người con hòa lẫn trong tâm từ của một bậc chân tu đắc đạo, nở tung như đóa sen tỏa hương tinh khiết, tuy vô hình mà bất diệt, tuy vô thanh mà tràn ngập âm hưởng diệu kỳ, tuy vô tướng mà chan hòa khắp cùng cõi giới.
Nơi quán nước ngày xưa của mẹ, sư bèn lập một ngôi chùa đặt tên là Mại Trà Lai tự. Am tranh mẹ từng ở có tên là Dưỡng Mẫu đường, sớm chiều khói hương nghi ngút.
Đó là một trong nhiều câu chuyện trong hành trạng của vị thiền sư Việt Nam đạo phong, liên quan tới hiếu đạo của người xuất gia. Ngài cũng là người sống gần dân, được người dân yêu quý gọi bằng tên mộc mạc là Hòa thượng Cua.
Hoằng pháp
Năm niên hiệu Vĩnh Trị (1678), vua Lê Hy Tông đề cao Nho Giáo và hạn chế Phật giáo, Phật giáo gặp pháp nạn. Vua ra chiếu đuổi hết các tăng ni già trẻ ở chốn thành thị, làng xã vào hết núi rừng. Sư thấy thế, bèn lên đường vào cung để giải pháp nạn cho tăng ni. Sư viết sớ dâng lên vua và trình bày rõ ý nghĩa thâm sâu của phật pháp, vai trò Phật giáo đối với nhân dân, đời sống xã hội… Vua nghe lý lẽ hợp tình thấu đáo, cảm phục kính mến rồi ra chiếu hủy bỏ lệnh cấm,cho phép tăng ni trở lại chùa cũ tu hành. Để tỏ rõ sự hiểu đạo và lòng cầu sám hội của mình, vua Lê Hy Tông đã cho tạc bức tượng vua quỳ mọp trên lưng vác tượng Phật để sám hối (nay còn tại chùa Hòe Nhai). Từ đó tiếng tăm và đạo hạnh sư càng vang xa, sư nhiều lần được vua Lê, chúa Trịnh mời vào cung thuyết pháp. Sau đó, sư trở lại chùa Hạ Long, Hải Dương thăm Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt, thầy trò gặp nhau nói chuyện rất hoan hỷ.
Sư lên kinh, vua ban chức là Ngự Tiền Chi Quân, tức được phép ngồi trước vua và áo gấm, nhưng sư từ chối chỉ nhận áo gấm. Sư khắc in kinh Hoa Nghiêm và để mộc bản ở chùa Báo Thiên, khắc bản kinh Pháp Hoa để ở chùa Khán Sơn. Có bà quốc nhũ (mẹ vú của vua) vì mến mộ đức hạnh nên mời cậu vua cúng dàng tịnh tài cho sư trùng tu chùa Hòe Nhai và còn dư tiền xây thêm chùa cầu đông. Kể từ đó sư trụ trì Chùa Hòe Nhai và hay thuyết pháp độ chúng, nơi đây trở thành Tổ đình của Thiền phái Tào Động Việt Nam.
Viên tịch
Sắp đến lúc thị tịch sư gọi đệ tử nổi pháp là Từ Sơn Hành Nhất đến và khai thị rằng: “Gió từ thổi mạnh cuốn sạch mây mù, vầng mặt trời trí tuệ sáng ngời, gió lành thổi mát trong triều ngoài nội, nhưng không hề trụ trước, vì không cũng hoàn không. Trước sau như một cho ngươi hiểu rõ ba điểm hiển mật, cho ngươi giữ lấy trung đạo, ra đời độ người nay cũng như xưa, trời Tây, cõi Đông đạo vốn như nhau”.
Thuyết pháp xong, Sư bảo: “Báo thân của ta đến đây đã hết”. Rồi sư ngồi kiết già trên thiền sàng an nhiên thị tịch. Bấy giờ là ngày 16 tháng 7 năm Tân Sửu nhằm niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ năm (1711) triều Lê Dụ Tông, Sư thọ bảy mươi hai tuổi. Đệ tử làm lễ hỏa táng xong, thu xá lợi xây tháp ở Đông Sơn để thờ. Nay tháp mộ của sư còn một ở chùa Nhẫm Dương, một ở chùa Hòe Nhai Hà Nội.
Tham khảo
- Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, năm 1990
- Sách “Thiền sư Việt Nam”, Thích Thanh Từ, DL 1999 – PL 2543
- https://phatgiao.org.vn/thien-su-tong-dien-va-hanh-trinh-tim-me-cuu-me-ly-biet-d35806.html