Lược sử Chùa Nhẫm Dương
Chùa Nhẫm Dương là một địa danh gắn với Thánh Tổ Đạo Nam Thông Giác Thủy Nguyệt là Thủy Tổ của phái Tào Động Việt Nam. Chùa Nhẫm Dương – tên chữ là Thánh Quang, dân gian quen gọi là chùa Nhẫm, nằm lọt thỏm trong khu hang động núi đá vôi Nhẫm Dương thuộc xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Điều kỳ lạ là dường như tất cả các dãy núi đá trùng trùng điệp điệp vây quanh chùa đều có đỉnh hướng về ngọn núi Nhẫm Dương – nơi chùa Thánh Quang tọa lạc. Chùa được xây dựng từ thời Trần (1225 -1400). Có thể nói đây là khu di tích có lịch sử xuyên suốt từ thời tiền sử đến nay. Đặc biệt đây còn là nơi trụ trì của Thánh Tổ Đạo Nam Thông Giác Thuỷ Nguyệt ̣(1637-1704), Đệ nhất tổ của Thiền phái Tào Động Việt Nam ở thế kỷ XVII, XVIII.
Theo ghi chép trong Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương thì đây là một ngôi chùa lớn được hưng công xây dựng vào thời Trần, đến thời Lê thì được tu bổ tôn tạo lớn. Theo tấm bia Thánh Quang Thiền Tự còn lưu giữ tại chùa cho biết, vào năm Tự Đức thứ 12 (tức năm Kỷ Mùi – 1859) đã trùng tu ngôi chùa này. Đến năm 1952, chùa Nhẫm Dương bị thực dân Pháp tàn phá và hư hại nặng nề, nhưng chỉ ít lâu sau, nhân dân địa phương đã dựng lại ngôi chùa bằng tranh tre tạm thời để thờ Phật.
Chùa Nhẫm Dương còn là một địa chỉ đỏ gắn liền với 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), chùa Nhẫm Dương từng là nơi đóng quân của nhiều cơ quan đơn vị bộ đội. Trong cuộc chiến đấu, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ vào những năm 1965 – 1973, Viện quân y 7, Quân khu 3 cũng từng sơ tán về núi Nhẫm Dương làm nơi chữa trị cho các thương binh.
Chùa Nhẫm Dương và Thiền phái Tào Động
Tào Động là thiền phái do hai nhà sư Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch sáng lập được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ XVII. Vào thế kỷ XVII, chùa Nhẫm Dương là chốn Tổ của phái Tào Động Việt Nam. Đây còn là nơi trụ trì của Thánh Tổ Đạo Nam Thông Giác Thủy Nguyệt (1637-1704), Đệ nhất tổ của Thiền phái Tào Động Việt Nam ở thế kỷ XVII, XVIII. Ông là Tào Động đời thứ 36 và là người khai nguyên chốn tổ Nhẫm Dương. Hiện nay, chùa Nhẫm Dương vẫn còn lưu giữ tháp đá 5 tầng đặt xá lị của Thánh Tổ và bức tượng Thánh Tổ bằng đá xanh có niên đại thế kỷ 18 có khắc trên viền áo chéo trước ngực các chữ Hán:“Nam vô Viên Quang? Thủy Nguyệt hòa thượng quốc sư” và ở chân bệ tượng có các chữ:“Tam nguyệt sơ lục nhật kị”.
Những dấu tích còn lại ngoài hang thánh tích xưa nơi hóa của Tổ Thiền, những di vật chùa xưa còn lại: 01 chân tảng khối hộp vuông đá xanh, mặt trang trí cánh sen, kích thước 0,55 x 0,55m; 4 bia đá cùng một tháp Mộ, trong đó bia Thánh Quang Thiền tự dựng năm Tự Đức thứ 12 được trang trí đẹp, đề tài lưỡng long (hóa lá) chầu nguyệt được chạm khắc sắc sảo điển hình cho nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn ở phía Bắc.
Kiến trúc
Hiện tại, nhìn tổng thể mặt bằng kiến trúc, chùa Nhẫm Dương có kết cấu kiến trúc chữ Công, xung quanh còn có sân vườn, tháp mộ sư; nhà Tổ, nhà Khách có kết cấu chữ Nhị với 7 gian 2 dĩ.
Chùa chính, tòa phía trước là Tiền đường được làm kiểu ba gian hai dĩ, tám mái đao, tường hồi bít đốc. Từ tòa Tiền đường nối ra phía sau là tòa Thượng điện qua nhà ống muống, tạo thành chữ Công. Tòa Thượng điện được làm kiểu giả ba tầng với mười hai mái đao cong, tạo độ cao, sâu cho Thượng điện ngôi chùa Nhẫm Dương.
Chùa Thánh Quang bị phá hủy trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chỉ còn lại 02 tháp mộ chất liệu đá chứa xá lị của 2 thiền sư thuộc phái Tào Động (01 tháp chứa xá lỵ của thánh tổ đệ nhất Thủy Nguyệt, thế kỷ XVII, tại phía sau chùa; 01 tháp chứa xá lỵ đệ nhị tổ Tông Diễn trên núi đất sau nhà tổ).
Trong những năm (1960), hòa thượng Thích Vô Vi trụ trì tại chùa, xây dựng lại ngôi bảo điện tạm thời. Từ những năm cuối của thế kỷ XX, dưới sự trụ trì của sư thầy Thích Diệu Mơ – người thôn Nhẫm Dương đã miệt mài như con tằm nhả tơ, chắt chiu tiền bạc, từng bước phục dựng, tôn tạo các hạng mục chùa được khang trang như ngày nay, cụ thể:
- Ngôi tam bảo: khởi tạo năm 1997, khánh thành năm 2002, có kiến trúc hình chữ Công (I) gồm 10 gian, chất liệu bê tông cốt thép, mái gỗ.
- Nhà tổ: 18 gian, kiến trúc hình chữ Nhất (一), xây dựng và hoàn thành vào năm 2011, hệ thống cột chất liệu bê tông, cấu kiện phần mái chất liệu gỗ.
- Nhà ở của các ni: 5 gian mái bằng, xây dựng năm 2002.
- Toàn bộ hệ thống sân đã được lát gạch và xi măng.
Hang động
Chùa Nhẫm Dương có khoảng gần 30 hang động lớn nhỏ bao quanh tạo thành một cảnh Phật toàn bích. Nổi bật nhất là tại động (hang) Thánh Hóa, nơi Sư Tổ Thuỷ Nguyệt viên tịch, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được rất nhiều di cốt hóa thạch cùng nhiều di vật khảo cổ thời đại đồ đá, thời đồng thau và các pho tượng Phật bằng đá có niên đại thời nhà Nguyễn. Địa tầng văn hoá ở đây dày tới 4m vẫn đang chờ giới Khảo cổ học đánh thức, khám phá. Khu hang động Khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và một số hang động, nằm ở thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn (Hải Dương) được hình thành do sự biến đổi của tự nhiên từ hàng triệu năm trước. Hệ thống núi đá vôi, các hang động và cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ là những kiệt tác đẹp hiếm có của Hải Dương. Khu di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết định số 15/QĐ- BVHTT ngày 14/4/2003 của Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Với nhiều hang động ở chùa núi Nhẫm Dương đã tạo cho ngôi cổ tự này một vẻ đẹp hiếm có. Có thể kể đến những hang Bò Lê, Hang Cá, Hang Tối, Hang Ma, Hang Thung Xanh, Hang Thung Thóc,… được thiên nhiên kiến tạo độc đáo, đặc biệt nhất là Hang Tối và Hang Thánh Hóa có liên quan đến dấu tích của người Việt Cổ và một vị Thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã từng tu hành tại đây. Và trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đây là nơi trú ẩn của nhiều nhà hoạt động cách mạng, và là đóng quân của quân đội.
Khu di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương có 2 hang quan trọng: hang Thánh Hóa và hang Tối.
- Hang Thánh Hóa nằm ở vị trí chân núi sau chùa Nhẫm Dương, có diện tích khoảng 100m2, hang hẹp dần từ ngoài vào trong. Trong những năm 1996 – 1997 khi sửa sang hang Thánh Hóa, nhân dân đã tìm thấy nhiều tượng Phật bằng đá có niên đại thế kỷ XII. Năm 2000 và 2001 Bảo tàng Hải Dương kết hợp với Viện Khảo cổ học, Viện Nghiên cứu địa chất đã tiến hành nhiều cuộc thám sát, nghiên cứu và kết luận: Hang Thánh Hóa là di tích khảo cổ học quan trọng của cả nước. Tại đây đã phát hiện di cốt hóa thạch của nhiều loài động vật có niên đại 3 đến 5 vạn năm như: Xương hàm tê giác, răng voi, nai, lợn rừng, nhím, gấu… đặc biệt còn có khá nhiều răng Pôn Gô (đười ươi) và răng người cổ. Động Thánh Hóa, theo Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở xã Duy Tân – Kinh Môn, tỉnh Hải Dương cho biết: Động Thánh bắt nguồn từ việc sư tổ Thủy Nguyệt đã hóa ở động này. Huyền thoại về hang Thánh Hóa với Sơ Tổ Thông Giác Thủy Nguyệt: “Sư Tổ Thủy Nguyệt đã đi nhiều nơi trong cả nước để thuyết pháp, cuối cùng tới Hạ Long thì dừng lại để phổ độ chúng sinh. Sau một thời gian ở đây, người đã nói với chúng sinh rằng: “Nay ta lên chơi trên núi Nhẫm Dương nếu 7 ngày không trở về, các người tìm thấy chỗ nào có mùi thơm thì ta ở đấy.” Đợi đúng 7 ngày không thấy nhà sư trở về, Phật tử cùng nhau kéo lên núi Nhẫm Dương nghe gió thổi mùi hương ngào ngạt, mọi người tìm đến một cái hang thấy sư ngồi kiết già trên tảng đá trong hang, ông mất năm 1704, thọ sáu mươi tám tuổi. Tứ chúng thỉnh nhục thân sư về hỏa táng, chia linh cốt thờ hai nơi, một ở chùa Hạ Long, một ở hang núi Nhẫm Dương.”
- Hang Tối nằm bên sườn núi phía Tây Bắc chùa Nhẫm Dương. Tại hang Tối phát hiện nhiều hiện vật thuộc văn hoá Hán, đồ đồng thuộc văn hoá Đông Sơn, các loại vò, lọ, vòng đá cuội, bàn nghiền, chày nghiền thời tiền sử, các loại tiền từ ngũ thù thời Hán đến tiền thời Nguyễn. Hang Tối, theo Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở xã Duy Tân – Kinh Môn, tỉnh Hải Dương cho biết hang này nằm bên sười núi phía tây bắc chùa Nhẫm Dương. Tại đây, vào năm 2001, Bảo tàng tỉnh Hải Dương khi thám sát đã phát hiện nhiều di vật như rìu, giáo đồng, thạp đồng, lưỡi xéo đồng,.. thuộc văn hóa Đông Sơn. Đây là một nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một số tỉnh như Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Nền văn hóa này được đặt theo tên địa phương nơi các dấu tích đầu tiên của nó được phát hiện gần sông Mã, Thanh Hóa. Theo đánh giá của các nhà khoa học, nền văn hóa Đông Sơn là sự phát triển liên tục và kế thừa các thời kỳ tiền Đông Sơn như văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Gò Mun.
Hệ thống hang động trên núi thuộc địa bàn xã Duy Tân gồm nhiều hang lớn nhỏ, chủ yếu nằm về phía Tây Bắc, Tây Nam và Đông Bắc chùa Nhẫm Dương. Các hang động này còn gắn với nhiều hoạt động của quân dân ta trong kháng chiến chống Pháp.
Những năm 1948-1951, tại hang Thánh Hóa có nhiều đơn vị bộ đội đóng quân, các đồng chí Lê Thanh Nghị, Hoàng Quốc Việt đã dùng hang làm trụ sở chỉ huy của Đệ tứ chiến khu Đông Triều. Huyện ủy Kinh Môn đã tổ chức hai cuộc họp vào tháng 7, tháng 9 năm 1947 bàn cách đánh địch. Trong kháng chiến chống Pháp, hang Ma là nơi trú quân của bộ đội tỉnh và huyện. Hang Mạt là nơi diễn ra nhiều trận chiến đấu ác liệt với quân địch. Trên đỉnh núi quân ta cắm cờ đỏ sao vàng, giặc bắn gẫy, ta lại cắm lên, cứ như vậy cuối cùng giặc phải chịu lui. Thung Xanh là căn cứ đóng quân của du kích địa phương, nơi đây đã chứng kiến nhiều trận chiến đấu anh dũng của du kích với giặc. Một số hang như: hang Đình, hang Tối, hang Lợn, hang Bò Lê, hang Thóc…là căn cứ đóng quân của bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Trong kháng chiến chống Mỹ, từ năm 1965 đến 1973, một số hang động trên núi là địa điểm đóng quân của Quân y viện 7 Quân khu III.
Hiện vật
Hệ thống tượng chùa Nhẫm Dương khá phong phú, được bài trí ở Thượng điện gồm các lớp tượng chính như sau:
Lớp trên cùng, cao nhất ở Thượng điện là bộ tượng Tam thế. Bộ tượng này giống nhau về kích cỡ và được tạo tác ngồi trên tòa sen. Bộ tượng Tam thế là cách gọi tắt của bộ tượng Thường Trụ Tam Thế Diệu Pháp Thân, mang ý nghĩa tượng trưng cho đạo Phật ở cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì thế, bộ tượng Tam thế thường bài trí ở nơi cao nhất trong Thượng điện và ít có đặc điểm riêng. Bộ tượng này gồm Phật A Di Đà biểu trưng cho Quá khứ, Phật Thích Ca Mâu Ni biểu trưng cho hiện tại và Phật Di Lặc biểu trưng cho tương lai.
Lớp thứ hai là bộ tượng Tây Phương Tam Thánh gồm Phật A Di Đà được tôn trí ở giữa, bên trái là Bồ tát Quán Thế Âm và bên phải là Bồ tát Đại Thế Chí. Phật A Di Đà là vị giáo chủ thế giới Tịnh Độ, dẫn dắt chúng sinh có niềm tin sâu Đức Phật A Di Đà vào thế giới Tây phương Cực lạc. Vô lượng thọ kinh, Quán vô lượng thọ kinh và A Di Đà kinh đã nêu rõ lai lịch, hạnh nguyện của Phật A Di Đà. Bồ tát Đại Thế Chí vốn là một vị hoàng tử phát tâm tu hành, được Phật khai tâm mà giác ngộ, và ngài nguyện cứu độ chúng sinh bằng cách đem ánh sáng trí huệ soi khắp thế gian để tiếp dẫn chúng sinh về thế giới Tịnh Độ. Bồ tát Quán Thế Âm là trợ thủ đắc lực của Phật A Di Đà, với công phu tu tập của mình, Bồ tát Quán Thế Âm nghe thấy hết những than thở của chúng sinh mà quyết đem lòng từ bi cứu khổ, cứu nạn.
Lớp thứ ba là bộ tượng Thích Ca Niêm Hoa gồm tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bài trí chính giữa, tượng trưng cho biến hóa thân (Ứng thân) sinh nơi trần thế, tu hành chính quả và thuyết pháp cho chúng sinh. Pho tượng bài trí bên phải là Bồ tát Văn Thù và bên trái là Bồ tát Phổ Hiền. Tuy nhiên, ở đây có thể thấy tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên đài sen, tay như cầm đóa sen như tích Phật thuyết pháp ở Linh Thứu, bên trái là Tôn giả Ca Diếp và bên phải là Tôn giả A Nan. Đây là hai đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni khi ngài còn ở thế gian.
Lớp thứ tư là bộ tượng Quán Âm Chuẩn Đề. Theo Mạc Chấn Lương trong Tạc tượng Phật và kiến trúc chùa cho biết: Quán Âm Chuẩn Đề còn có tên là Thiên Nhân Trượng Phu Quán Ấm, ngài chủ yếu cứu độ chúng sinh trong cõi nhân gian. Quán Âm Chuẩn Đề cũng được gọi là Chuẩn Đề Bồ Tát, Chuẩn Đề Phật Mẫu,… Ngài được Phật tử đặc biệt tôn sùng, coi là vị Bồ tát giữ gìn Phật pháp, kéo dài tuổi thọ và hộ mệnh, trừ tai ngăn họa cho chúng sinh.
Lớp thứ năm là tòa Cửu Long mô tả điển tích khi Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, rồi ngài đi bảy bước tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói rằng: “Thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn”. Nghĩa là: Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là quý hơn cả. Vì thế, tòa Cửu Long được chạm chín con rồng phun nước vây quanh một chú bé mặc váy ngắn và xung quanh có các đám mây, nhạc sĩ thiên thần.
Ở Tiền đường chùa Nhẫm Dương còn bài trí tượng Đức Ông, tượng Thánh Tăng,… còn ở nhà Tổ bài trí tượng Bồ Đề Đạt Ma và những vị Tổ đã từng trụ trì ở chùa, trong đó có tượng Tổ Thủy Nguyệt làm bằng chất liệu đá. Như vậy, hệ thống tượng Phật, Bồ tát được bài trí ở chùa Nhẫm Dương là một điển hình trong vùng và ở đồng bằng Bắc Bộ. Đó là trong Thượng điện thường bài trí những bộ tượng Phật quan trọng nhất và có tính lịch sử nhất. Từ Phật Thích Ca lúc mới đản sinh cho đến khi ngài nhập Niết bàn, tượng trưng cho đạo Phật ở ba thời Quá khứ, Hiện tại và Vị lai. Hai bên thường là những vị Bồ tát – những vị trợ thủ cho chư Phật trong việc cứu độ chúng sinh như Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Chuẩn Đề,… Ở tòa Tiền đường bài trí tượng Đức Ông, tượng Thánh Tăng và ở tòa nhà Tổ bài trí tượng Tổ như Bồ Đề Đạt Ma và các vị từng trụ trì chùa.
Lễ hội
Lễ hội chùa Nhẫm Dương diễn ra hàng năm trong ba ngày, từ ngày mùng 5 mùng 6 đến ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch.
Ngày mùng 5 làm lễ Nhập tịch gồm lễ Phật, cúng Tổ và buổi tối làm lễ Mộc dục (lễ tắm tượng Thánh tổ). Lễ Nhập tịch, đặc biệt là nghi lễ Mộc dục rất quan trọng, thể hiện ở việc lựa chọn người làm lễ, nước dùng, khăn tắm dùng nghi lễ,… Theo đó, người được chọn lựa làm lễ là người gia đình con cái song toàn, được nhân dân tôn kính, và người đó phải ăn chay trước đó ba ngày, phải tẩy trần trước khi thực hiện nghi lễ tế. Nước dùng làm lễ phải lấy nước giếng chùa rồi pha ngũ vị hương đựng trong chóe. Khăn dùng phải là loại khăn mới. Trong khi làm lễ Mộc dục thì có nghi thức dâng nước cúng gồm các vị thuốc bắc đựng trong ba chén cúng Phật tổ. Song song với lễ Mộc dục, nhà sư trụ trì tiến hành lễ Đàn tràng sái tịnh với lễ vật dâng gồm hoa quả, xôi chè, bánh chưng chay trong khoảng thời gian một giờ. Khi lễ Mộc dục xong, bã ngũ vị hương được nhân dân xin lộc đem về đun lại tắm cho trẻ con, hay người lớn rửa mặt, còn bã thuốc được chia cho mọi người tham dự về nấu lại uống. Mọi người tin rằng mình sẽ có sức khỏe khi uống và coi đây là lộc thánh ban cho.
Ngày mùng 6 là ngày lễ chính. Dân làng và Phật tử xa gần tề tựu từ sáng sớm để cùng làm lễ cúng Phật và Thánh tổ với lễ vật dâng cúng gồm hương, hoa quả, bánh chưng, xôi chè và cỗ chay. Sau khi nghi thức cúng Phật và chư vị Thánh tổ hoàn tất thì tiến hành nghi thức rước Thánh tổ. Đoàn rước có đường rước đi từ chùa ra cổng rồi vòng phía trái đi dọc làng đến giáp chùa Sanh lại vòng tới thôn Bào rồi mới rước về chùa. Mở đầu là nhóm cờ thần, bát bửu, trống, nhạc bát âm rồi kiệu long đình, nhang án, kiệu rước long ngai bài vị thánh tổ cùng toàn thể dân làng và du khách thập phương. Khi rước kiệu về đến chùa thì làm lễ yên vị, tế Thánh tổ. Sau đó, các đoàn tế của các nơi khác về lễ chùa.
Ngày mùng 7 là lễ tất kết thúc ba ngày diễn ra lễ hội. Trong ngày này diễn ra nghi lễ cúng Phật, cúng Thánh tổ. Các nhà sư và Phật tử niệm Phật. Lễ vật dâng cúng là hương, hoa, oản quả. Điểm đặc sắc trong ngày lễ này có lễ bố thí bằng cháo hoa và bỏng ở sân chùa. Nhà sư trụ trì dựng đàn Mông Sơn Thí Thực bằng gỗ cao chừng hơn một mét, bày đối diện với hương án cúng Phật. Nghi thức này với mong muốn phá ngục cho các linh hồn cô độc đến ăn mày cửa Phật. Bên cạnh những nghi lễ, ở chùa Nhẫm Dương còn tổ chức các trò chơi dân gian như kéo co, đánh cờ, đánh đu, hát văn, múa sinh tiền làm cho không khí ngày hội vô cùng náo nhiệt.
Thành tựu
Khu di tích khảo cổ chùa Nhẫm Dương và các hang động xã Duy Tân đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích quốc gia năm 2003 và ngày càng thu hút nhiều khách tham quan và các nhà nghiên cứu khoa học.
Tham khảo
- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Thiền phái Tào Động Việt Nam và quần thể di tích Nhẫm Dương: giá trị lịch sử, văn hóa và phật giáo” – Kinh Môn, Hải Dương 2015
- Sách Thiền phái Tào Động ở Việt Nam – Tác giả: Thích Thọ Lạc – Chu Văn Tuấn (Đồng chủ biên)
________________________________________
Các ngôn ngữ khác
Tiếng Anh (English)
Chùa Nhẫm Dương is a place associated with the Holy Patriarch Dao Nam Thong Giac Thuy Nguyen, the Water Patriarch of the Tào Động sect in Vietnam. Nhẫm Dương Pagoda, also known as Thánh Quang in Vietnamese or simply Chùa Nhẫm by locals, is nestled in the limestone cave area of Nhẫm Dương, located in Duy Tan commune, Kinh Mon district, Hai Duong province. Remarkably, all the mountain ranges surrounding the pagoda seem to have peaks facing towards Mount Nhẫm Dương, where Thánh Quang Pagoda is situated. The pagoda dates back to the Tran dynasty (1225-1400), making it a historical site with a continuous history from prehistoric times to the present. Notably, it is also the residence of the Holy Patriarch Dao Nam Thong Giac Thuy Nguyen (1637-1704), the first patriarch of the Tào Động Zen sect in Vietnam during the 17th and 18th centuries.
According to records in the archaeological history of Nhẫm Dương Pagoda and the caves in Duy Tan, Kinh Mon district, Hai Duong province, this is a large temple constructed during the Tran dynasty, renovated and expanded during the Le dynasty. As indicated by the Thánh Quang Zen Temple stele preserved in the pagoda, it underwent restoration in the 12th year of Tự Đức’s reign (equivalent to the year Kỷ Mùi – 1859). In 1952, Nhẫm Dương Pagoda suffered severe damage from French colonialists, but shortly after, the local people rebuilt the temple using temporary bamboo structures for worship.
Nhẫm Dương Pagoda is also closely tied to two resistance wars against the French and the United States. During the resistance against the French (1946-1954), it served as the headquarters for various military units. In the fight against the destructive war waged by the imperialist U.S. from 1965 to 1973, Military Medical Institute 7 and Military Region 3 also temporarily evacuated to Mount Nhẫm Dương to provide medical care for wounded soldiers.
Tiếng Trung (Chinese)
Chùa Nhẫm Dương是与越南道派水月岳道南通德圣祖有关的地名。 Nhẫm Dương寺,越南字为Thánh Quang,民间俗称Nhẫm寺,坐落在海阳省京门区Duy Tân社的Nhẫm Dương石灰岩山洞区内。奇特的是,似乎环绕寺庙的所有山脉都以其顶峰指向Nhẫm Dương山 – Thánh Quang寺所在之地。该寺建于陈朝时期(1225-1400年),可以说这是一个从史前时期一直延续到现在的历史古迹。特别是,这也是道南通德水月岳寺(1637-1704年)的住所,他是越南17世纪和18世纪的禅宗道派的第一祖师。
根据关于Nhẫm Dương寺和海阳省京门区Duy Tân的洞穴的考古历史记录,这是一个大型寺庙,建于陈朝时期,在黎朝时期进行了修复和扩建。根据寺庙内保留的Thánh Quang禅寺碑文,它于嗣德帝12年(即Kỷ Mùi – 1859年)进行了修复。到1952年,Nhẫm Dương寺遭到法国殖民者的严重破坏,但不久之后,当地人用竹子临时重建了寺庙以供供奉。
Nhẫm Dương寺还与越南对抗法国和美国的两次战争紧密相连。在对抗法国的战争时期(1946年至1954年),该寺曾是许多军事单位的驻地。在反对美帝国主义在1965年至1973年间进行的破坏性战争中,军医学院7和军区3也曾短暂撤到Nhẫm Dương山,为伤员提供医疗服务。
Tiếng Pháp (French)
Le temple Nhẫm Dương est un lieu associé au Saint Patriarche Dao Nam Thong Giac Thuy Nguyen, le Patriarche de l’école Tào Động au Vietnam. Le temple Nhẫm Dương, également connu sous le nom de Thánh Quang en vietnamien ou simplement Chùa Nhẫm par les habitants, est niché dans la région de la grotte calcaire de Nhẫm Dương, située dans la commune de Duy Tan, le district de Kinh Mon, dans la province de Hai Duong. De manière remarquable, toutes les chaînes de montagnes entourant le temple semblent avoir des sommets orientés vers le mont Nhẫm Dương, où se trouve le temple Thánh Quang. Le temple remonte à la dynastie Tran (1225-1400), en faisant un site historique avec une histoire continue depuis la préhistoire jusqu’à nos jours. Notamment, il est également la résidence du Saint Patriarche Dao Nam Thong Giac Thuy Nguyen (1637-1704), le premier patriarche de l’école Zen Tào Động au Vietnam au XVIIe et XVIIIe siècles.
Selon les archives de l’histoire archéologique du temple Nhẫm Dương et des grottes à Duy Tan, le district de Kinh Mon, dans la province de Hai Duong, il s’agit d’un grand temple construit pendant la dynastie Tran, rénové et agrandi pendant la dynastie Le. Comme l’indique la stèle du temple Thánh Quang Zen conservée dans le temple, il a été restauré la 12e année du règne de Tự Đức (équivalent à l’année Kỷ Mùi – 1859). En 1952, le temple Nhẫm Dương a subi des dégâts importants causés par les colons français, mais peu de temps après, la population locale a reconstruit le temple en utilisant des structures temporaires en bambou pour le culte.
Le temple Nhẫm Dương est également étroitement lié à deux guerres de résistance contre les Français et les Américains. Pendant la résistance contre les Français (1946-1954), il a servi de quartier général pour diverses unités militaires. Dans la lutte contre la guerre destructrice menée par l’impérialisme américain de 1965 à 1973, l’Institut médical militaire 7 et la Région militaire 3 ont également évacué temporairement vers le mont Nhẫm Dương pour prodiguer des soins médicaux aux soldats blessés.