Giới thiệu chung
Quần thể di tích lịch sử ở Đa Sĩ gồm: đình, chùa, miếu, lăng mộ Thành hoàng làng – thần y Hoàng Đôn Hòa tọa lạc tại phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, nằm bên cạnh cầu Kiến Hưng. Đây là nơi có nghề rèn chuyên nghiệp từ đời nhà Trần (1225-1400) và còn lưu giữ được nhiều di tích lịch sử văn hóa quý giá,…
Đình Đa Sĩ nằm ở đầu Bắc của làng, cách trung tâm quận Hà Đông hơn 1km về hướng Đông.
Miếu Đa Sĩ thờ danh y Hoàng Đôn Hòa – một danh y nổi tiếng lấy sự nghiệp là y đức cứu người bị bệnh cuối thế kỷ XVI và phu nhân của danh y.
Chùa Đa Sĩ có tên gọi là chùa Lâm Dương hay quán Lâm Dương (quán Lâm Dương). Sở dĩ chùa có tên Đa Sĩ là vì người dân quanh vùng gọi theo tên làng Đa Sĩ. Chùa nằm ven sông Nhuệ, được xây cạnh miếu thờ Hoàng Đôn Hòa và phu nhân.
Lược sử
Đình Đa Sĩ
Đình được được xây dựng vào thời Lê – niên hiệu Vĩnh Thịnh 2 (1706) thờ hai vị Tổ của nghề rèn Đa Sĩ là cụ Nguyễn Thuật và Nguyễn Thuần.
Trải qua thời gian, đình được chính quyền và nhân dân địa phương tu bổ nhiều lần: năm 1810 (niên hiệu Gia Long 9), năm 1834 (niên hiệu Minh Mệnh 15), năm 1903 (niên hiệu Thành Thái 5) và năm Nhâm Thìn 1952. Các lần tu sửa được ghi lại đều là tiến hành tu sửa hạng mục chính của di tích như đại bái và hậu cung, kiến thiết các hạng mục phụ để có quy mô, diện mạo tổng thể công trình như hiện nay.
Miếu Đa Sĩ
Miếu Đa Sĩ thờ danh y Hoàng Đôn Hòa, ông thi đỗ Giám sinh có tài đặc biệt về nghề thuốc, nổi danh không chỉ trong nước và nước ngoài cũng biết đến tiếng tăm của ông.
Năm 1574, triều đình cất binh đánh quân Mạc ở Thái Nguyên, ông được cử làm “Điều hộ lục quân” (theo quân đội để chữa cho quân binh). Sau khi thành công trở về, ông được thăng chức Thị nội thái y viện thủ phiên và được phong tước Lương dược hầu.
Ông là người không màng danh lợi hay chức tước nên khi làm quan được một thời gian thì ông xin nghỉ, cùng vợ về quê sinh sống, làm thuốc và dạy học. Ông thường lấy sự nghiệp là y đức cứu người bệnh. Ông bà dùng các cây cỏ tại quê hương và tự trồng cây làm thuốc chữa bệnh. Có những người bệnh nghèo, không có tiền chi trả, ông bà không những cứu chữa mà còn cấp cả tiền bạc. Nhân dân khắp nơi được ông bà chữa bệnh bằng tài năng và tâm đức. Hoàng Đôn Hòa là một vị thầy thuốc có tài đức, tâm huyết, có lòng thương dân, có nhiều công lao cho nền y học nước nhà. Khi ông mất nhân dân Đa Sĩ cảm mến công đức nên lập miếu tại chính ngôi nhà của ông bà để thờ phụng muôn đời.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, trung điện của Miếu bị xuống cấp và được trùng tu vào năm Gia Long nhị niên (1803). Đến năm Khải Định thất niên (1922) lại được tôn tạo.
Chùa Đa Sĩ
Bài kí trên bia Lâm Dương quán bi cho biết: “Cảnh quán ngoảnh bốn phía âm u, bên trái bên phải liền một dải đất, đằng trước đằng sau là sông nước cảnh đẹp, đầy đủ và thiêng liêng”. Chưa có tư liệu xác định chắc chắn thời điểm ra đời của quán Lâm Dương cũng như thời điểm quán được chuyển hóa thành chùa. Tuy nhiên, theo ghi chép trên tấm bia tạo năm 1680, thì lúc đó đã có chùa Lâm Dương vì theo ghi chép thời gian này quán được gọi là chùa. Qua nhiều lần tu sửa vào các năm 1628, 1680, 1724, 1740 và bẵng đi một thời gian dài, đến năm Bảo Đại 15 (1944) mới có một tấm bia ghi lần trùng tu nữa. Vì vậy, hiện nay chùa Lâm Dương mang đậm phong cách thời Nguyễn.
Kiến trúc – Di vật
Đình Đa Sĩ
Đình tọa lạc trên một khu đất rộng hơn 2.000m², lưng đình tựa hướng tây bắc, mặt nhìn hướng đông nam. Nơi đây có thế đất “Tả thanh long, hữu bạch hổ” bên trái là đường liên huyện song song với con sông Nhuệ, bên phải là khu dân cư trong làng đông đúc, trù phú, sầm uất. Phía trước là ao Đình. Phía sau là mả Đậu. Đó là thế đất tuyệt đẹp, thế đất của đế vương nhiều làng, nhất là các làng quanh đây không có làng nào được thế đất của đình làng Đa Sĩ.
Nhìn toàn cảnh, Đại đình Đa Sĩ là một bức tranh tuyệt đẹp sống động gồm: Nghi môn, Tả hữu mạc, Đại bái, Hậu cung. Nghi môn gồm 4 trụ biểu và 2 cổng phụ nhỏ tạo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái đao cong. Trên trụ biểu lớn có ghi câu đối, tiêu biểu như:
“Vật lạc dữ thời gia, mạc bất Ứng Hòa ngu đế thế;
Địa linh sinh nhân kiệt, tư hoàng Đa Sĩ mãn vương đình”.
Nghĩa là:
“Cảnh vật vui tươi thời khí tốt đẹp, quên sao được người Ứng Hòa xưa ở các đời vua;
Đất thiêng sinh nhân kiệt, nhớ biết bao người Đa Sĩ xưa đầy khắp vương đình”.
Từ trụ biểu lớn nối sang trụ biểu nhỏ tạo lối đi phụ kiểu cuốn vòm, trên có 2 tầng mái đao uốn cong, phần chồng diêm đề chữ “Nghênh thánh đức” và “Nghênh thần công”.
Tả hữu mạc: tọa lạc 2 bên sân, sau Nghi môn đình. Tả hữu mạc kiến thiết gồm 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, 2 mái chảy. Bộ khung bằng chất liệu gỗ, liên kết theo kiểu thức vì kèo gối tường.
Đại bái: gồm 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, bộ khung chịu lực bằng chất liệu gỗ, liên kết theo kiểu thức “thượng chồng rường con nhị, hạ chồng rường, bảy hiên”. Nội thất treo các bức hoành phi đề “Thọ thế đại vương”, “Địch triết chương mô”, “Dực bảo trung hưng”. Các cột đều treo câu đối được sơn son thếp màu vàng.
Hậu cung: nối với gian giữa Đại bái trên mặt bằng chữ Đinh. Nơi đây bài trí các đồ thờ và sắp đặt một bộ khám được sơn son thếp màu vàng, giữa khám đặt di ảnh của danh y Hoàng Đôn Hòa.
Miếu Đa Sĩ
Phương đình: là một công trình kiến trúc khá độc đáo, được cổ nhân làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, có 16 cột bằng gỗ và 12 cột gạch chạy xung quanh đỡ các mái. Trung tâm Phương đình là bốn cột gỗ lớn (cột cái) đỡ toàn bộ kiến trúc. Về điêu khắc, ở đây có 4 bức cốn được làm vào thời vua Tự Đức với đề tài tứ linh: rồng cuốn thủy, rùa ấp lá sen, nghê mang hà đồ lạc thư, phượng hàm thư. Phía ngoài, đắp nổi trúc mai hóa rồng. Trên các ván bưng, người xưa chạm khắc các loại hoa: cúc, phù dung, đào, lựu, trúc, thông và chim trĩ. Tại đây treo bức hoành phi đề “Thần công hộ quốc” và “Vạn cổ phúc thần” và câu đối bằng gỗ, chữ khảm trai.
Tả hữu mạc: gồm 2 dãy nhà phía trước miếu thờ chính, được xây kiểu tường hồi bít đốc, phía trước để trống không bưng cửa.
Tiền tế: gồm 5 gian xây kiểu tường hồi bít đốc, nội thất treo bức hoành phi ca ngợi công đức của danh y Hoàng Đôn Hòa: “Thần công hộ quốc”, “Vạn cổ phúc thần”, “Thánh đức chương văn”, “Thần công mạc trắc”.
Hạng mục tiếp theo là Trung cung (Trung điện) được cổ nhân kiến trúc gồm ba gian.
Trung tâm nơi thờ phụng ở chính điện được bày trí một hương án lớn chạm các đề tài: lưỡng long chầu nguyệt, hổ phù, chữ thọ, cây thông, trúc… Hai bên hương án bài trí hai chiếc lọng lớn và bát bửu, bát tiên. Đồ thờ được chạm khắc công phu, sơn son thếp vàng rực rỡ. Ở đây cổ nhân đã bài trí các bức đại tự “Dục tú chung anh”, “Âm dương hợp đức”, “Thọ tư dân”, “Lương y quốc”. Về cổ vật, ở đây có hai con hạc lớn tạc bằng gỗ cao 2 mét mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII, đôi ngựa hồng và bạch đặt trên cỗ xe.
Hậu cung là ba gian nhà dọc, đáng chú ý có hai bộ vì kèo được làm theo kiểu “Giá chiêng con nhị”. Đây là hạng mục kiến trúc cổ nhất, có thể thuộc thế kỷ XVI – XVII. Họa tiết trang trí được cổ nhân chạm nổi Rồng mẫu tử. Hậu cung có một pho tượng thờ mang phong cách tả thực tạc người ở tư thế ngồi nghiêm trang, mặc áo thụng đỏ, đầu đội mũ cánh chuồn sơn son thếp vàng. Tượng miêu tả danh y Hoàng Đôn Hòa quắc thước nhưng nhân hậu. Tượng được tạc vào thế kỷ XIX. Cũng ở Hậu cung còn thờ hai cỗ long ngai bài vị – di vật thời Lê cùng cuốn Thần phả và 43 đạo sắc phong.
Chùa Đa Sĩ
Chùa Lâm Dương được xây dựng nhìn theo hướng Đông Nam – hướng truyền thống của kiến trúc Việt. Đây cũng là hướng của trí tuệ, mang tính dương, gắn với hạnh phúc, điều thiện, hướng của đế vương và thần linh.
Chùa có bố cục mặt bằng gồm các hạng mục: Tam quan (kiêm Gác chuông), Tam bảo có hành lang hai bên, điện Mẫu. Tam bảo (Tiền đường và Thượng điện) có mặt bằng chữ “đinh”. Mặt bằng bố cục các hạng mục kiến trúc này đã có sự thay đổi so với ghi chép trên tấm bia Hưng tạo Lâm Dương Quán dựng năm 1628 và trùng tu Lâm Dương quán bi được tạo khoảng thế kỉ XIX.
Tam quan chùa đồng thời là Gác chuông được xây bằng gạch cao 10 m gồm 2 tầng, có bốn cột đồng trụ, đầu trụ đắp tứ phượng, lá lật và trái giành. Tầng một gồm 3 cửa xây cuốn vòm có cầu thang đi lên ở đầu hồi bên phải. Tầng hai làm nhỏ hơn, cũng chia ba khoang, khoang giữa khá rộng có treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ nhất (1793).
Tòa Tiền đường 5 gian, đầu hồi bít đốc, tay ngai, hai tầng mái lợp ngói, phần cổ diêm chính giữa đắp nổi 3 chữ Hán lớn “Lâm Dương quán”. Các bộ vì theo kiểu kèo kẻ trên mặt bằng 4 hàng chân, không có hoa văn trang trí. Phong cách kiến trúc thời Nguyễn muộn, khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Thượng điện được nối vào gian giữa Tiền đường tạo mặt bằng chữ “đinh”. Bộ vì làm kiểu thượng chồng rường, hạ cốn mê, trên cốn chạm hoa văn kỉ hà cách điệu hoa lá, phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỉ XX.
Hành lang được bắt đầu từ tường hậu của Tiền đường kéo dài đến gần sát hiên nhà Tổ. Hành lang gồm 6 gian với bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng, bẩy hiên, ít có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Ngoài ra còn có nhà Tổ, nhà Điện, nhà bếp tạo thành một quần thể kiểu kiến trúc khép kín.
Nguyên gốc, đây là một ngôi quán Đạo giáo, xưa gọi là quán Lâm Dương, sau mới được gọi là chùa, cho nên hệ thống tượng thờ hiện nay có cả tượng Phật và tượng Thánh. Bên trái Tiền đường là các pho tượng Đức Ông và Già Lam – Chân Tể, bên phải là Thánh Tăng và Diệm Nhiên – Đại Sĩ cùng 5 pho tượng Hậu ở bên hồi.
Từ gian giữa Tiền đường nối về phía sau là Thượng điện. Lớp trên cùng, cao nhất là bộ tượng Tam Thanh gồm Ngọc Thanh ở giữa, hai bên là Thượng Thanh và Thái Thanh. Đây là một bộ tượng rất quan trọng và phải có ở các Đạo quán. Hai bên hồi là tượng Bồ tát Quan Âm tọa sơn và Quan Âm tống tử. Đây là bộ tượng phổ biến trong các ngôi chùa thờ Phật.
Tiếp theo là lớp thứ hai, ở chính giữa là bộ tượng Tam thế Phật gồm Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai. Bên trái bộ Tam thế là tượng một nhà sư mặc áo cà sa nhưng lại được đắp thêm nhiều cụm hoa to, hai bên là hai tượng hậu. Cả ba pho tượng này đều bài trí trên bệ với chân buông. Bên phải bộ Tam thế là Thái Thượng Lão Quân cùng hai vị thần tướng giúp việc là Trương Thiên Sư và Lý Thiên Sư.
- Ở lớp thứ ba chỉ bài trí tượng Phật A Di Đà.
- Lớp thứ tư là tượng Thánh Phụ và Thánh Mẫu – là bộ tượng của Đạo giáo.
- Lớp thứ năm là tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ.
- Lớp thứ sáu là tượng Di Lặc và Tuyết Sơn. Hai pho tượng này bài trí ngang nhau. Đây là sự bài trí điển hình trong nhiều chùa thời Nguyễn.
- Lớp thứ bẩy là tượng Thích Ca sơ sinh bài trí ở giữa, hai bên là Phạm Thiên và Đế Thích.
- Lớp cuối cùng của Thượng điện là Nam Tào và Bắc Đẩu. Thông thường phải có tượng Ngọc Hoàng ở chính giữa, nhưng tại đây không thấy bài trí tượng này. Bên cạnh đó, tòa Thượng điện còn bài trí tượng Hộ pháp Khuyến Thiện và Trừng Ác ở phía ngoài.
- Ngoài ra còn có tượng Tam tòa Thánh Mẫu được thờ ở điện Mẫu riêng, ngoài khu Tam bảo và tượng Sư tổ họ Nguyễn Nghiêm, tượng hậu Phật của vợ chồng huyện thừa Trịnh Đức Nhuận và Phạm Thị Diệu.
Trải qua nhiều lần trùng tu, quán Lâm Dương ngày nay mang đậm phong cách thời Nguyễn. Đó là cổng tam quan cao 10m có bốn cột đồng trụ, cửa xây cuốn vòm với ba lớp mái đao cong. Bái đường 5 gian theo lối kết hợp giá chiêng chồng giường con nhị không có hoa văn trang trí. Bên trong có cửa võng, chạm thủng kênh bong, rồng chầu mặt nguyệt, hoa phù dung, hoa lựu, mẫu đơn, … đường nét chạm mềm mại, ngoài ra còn có nhà Tổ, nhà Điện, Tả vu, Hữu vu, nhà bếp tạo thành một quần thể kiểu kiến trúc hoàn chỉnh khép kín theo kiểu “nội công ngoại quốc”.
Nhìn chung, quán Lâm Dương được dựng khá quy mô với đầy đủ các hạng mục công trình, lại bảo lưu được nhiều di vật quý như: hệ thống bia đá và án gian thời Lê, chuông đồng thời Tây Sơn, nhất là hệ thống tượng Phật và tượng Thánh mang dấu ấn của đạo Phật.
Thành tựu
Miếu Đa Sĩ được công nhận là di tích Quốc gia.
_____________________________________
Các ngôn ngữ khác
Tiếng Anh (English)
Da Si is a historical site complex in Hanoi, Vietnam, consisting of a communal house, pagoda, temple, and tomb of Thanh Hoang village’s deity Hoang Don Hoa. It gained prominence during the Tran dynasty and preserves numerous historical and cultural relics. Da Si Communal House, built during the Le dynasty, underwent several renovations throughout history. The temple honors the renowned healer Hoang Don Hoa, known for his medical profession and great virtues. Da Si Pagoda, also known as Lam Duong Pagoda, constructed in Nguyen dynasty style, serves as a place of worship for various entities, from Buddhists to deities and Taoist scholars.
Key architectural features of Da Si include the communal house with the Main Gate, Left and Right Wings, Grand Ceremony Hall, and Rear Palace; the temple with the Phuong Temple and Left and Right Wings; and the pagoda with the Three Gates, Three Treasures, Front Hall, Upper Hall, and other structures. The site preserves valuable artifacts, including stone steles from the Le dynasty, Tay Son dynasty bells, and a unique collection of Buddha and Saint statues.
Da Si Communal House is recognized as a national monument due to its unique history and architecture, serving as a significant destination for tourists and researchers interested in Vietnamese historical and cultural heritage.
Tiếng Trung (Chinese)
大四(Da Si)是越南河內的一個歷史性場所,包括一個公所、佛寺、寺廟和Thanh Hoang村的神祇Hoang Don Hoa的墓地。它在陳朝時期變得重要,保留了眾多的歷史文化遺跡。大四公所,建於黎朝時期,經歷了歷史上的多次整修。寺廟向著名的治療師Hoang Don Hoa致敬,他以其醫學專業和崇高的德行而聞名。大四佛寺,又稱Lam Duong寺,以阮朝風格建造,作為供奉各種實體的場所,從佛教徒到神祇和道教學者。
大四的主要建築特色包括公所,其中包括主門、左翼、右翼、大禮堂和後殿;寺廟,其中包括Phuong廟和左右翼;佛寺,其中包括三個門、三個寶藏、前廳、上廳和其他結構。該地點保存了珍貴的文物,包括黎朝的石碑、Tay Son王朝的鐘和一個獨特的佛像和聖像收藏。
由於其獨特的歷史和建築,大四公所被譽為國家紀念碑,是對越南歷史文化遺產感興趣的遊客和研究者的重要目的地。
Tiếng Pháp (French)
Da Si est un complexe de sites historiques à Hanoï, au Vietnam, comprenant une maison communale, une pagode, un temple et le tombeau du déité du village Thanh Hoang, Hoang Don Hoa. Il a gagné en importance pendant la dynastie Tran et conserve de nombreux vestiges historiques et culturels. La maison communale de Da Si, construite pendant la dynastie Le, a subi plusieurs rénovations tout au long de l’histoire. Le temple rend hommage au guérisseur renommé Hoang Don Hoa, connu pour sa profession médicale et ses grandes vertus. La pagode Da Si, également connue sous le nom de pagode Lam Duong, construite dans le style de la dynastie Nguyen, sert de lieu de culte à diverses entités, des bouddhistes aux divinités et aux érudits taoïstes.
Les caractéristiques architecturales clés de Da Si comprennent la maison communale avec la porte principale, les ailes gauche et droite, la grande salle de cérémonie et le palais arrière ; le temple avec le temple Phuong et les ailes gauche et droite ; et la pagode avec les trois portes, les trois trésors, le hall avant, le hall supérieur et d’autres structures. Le site préserve des artefacts précieux, notamment des stèles en pierre de la dynastie Le, des cloches de la dynastie Tay Son et une collection unique de statues de Bouddha et de saints.
La maison communale de Da Si est reconnue comme un monument national en raison de son histoire et de son architecture uniques, servant de destination importante pour les touristes et les chercheurs intéressés par le patrimoine historique et culturel vietnamien.