Đức Thánh Tam Trần Quốc Tảng là ai?
Đức Ông Đệ Tam Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng hay còn được gọi là Đức Ông Cửa Suốt, Thánh ông Cửa Đông, Đông Hải Hưng Nhượng Vương, ngài là con trai thứ 3 của Đức Thánh Trần, gọi chung là Tứ Vị Vương Tử, bao gồm:
- Đức Thánh Cả Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn
- Đức Thánh Phó Hưng Hiến Vương Trần Quốc Uất
- Đức Thánh Tam Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng
- Đức Thánh Tứ Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện
Là con của một vị tướng tài ba vào bậc nhất của triều Trần, ông thừa hưởng toàn bộ khí phách của cha và sức mạnh, quyền uy của cả dòng họ, một lòng vì dân nước và lập được nhiều công trạng lớn lao.
Bên cạnh đó, theo cuốn Thần tích Đức Thánh Trần lại cho rằng Ngài là con trai thứ hai của Đức Thánh Trần:
“Vương phi phu nhân, tức vợ Ngài, huý là Anh, hiệu Thiên Thành công chúa, được truy tôn là Nguyên Từ Quốc Mẫu, đức tính hiền lành sinh bống Vương tử, một Vương cô và nuôi một vị Vương cô.
-
- Trưởng nam: Hưng Võ vương Quốc Hiến
- Thứ hai: Hưng Nhượng vương Quốc Tảng
- Thứ ba: Hưng Từ vương Quốc Nghĩa
- Thứ tư: Hưng Hiền vương Quốc Uất (Uý)”1
Thần tích Hưng Hiến Vương
Tuy lịch sử không có nhiều ghi chép về ông, nhưng những gì còn truyền lại cũng đủ để khẳng định công lao to lớn của ông đối với đất nước, đặc biệt trong công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược.
Tháng 12 (ÂL) năm 1284, quân Nguyên xâm lược Đại Việt. Quân đội nhà Trần thất thế, phải liên tục rút chạy. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi về sự kiện này:
“Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà2, Na Sầm3, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn4 đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của ng Đạo Vương để chống quân Nguyên.”
Cho đến cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba năm 1288, cha con Hưng Đạo Vương vẫn luôn là những người đứng đầu xông pha trận mạc. Đến năm 1289, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên kết thúc thắng lợi, khi định công dẹp giặc, nhà vua đã “tiến phong Hưng Đạo Vương làm Đại Vương, Hưng Vũ Vương làm Khai Quốc công, Hưng Nhượng Vương làm Tiết độ sứ”. Riêng “Hưng Trí Vương không được thăng trật, vì đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà lại còn đón đánh chúng”.5
Con gái ngài gả cho Trần Anh Tông tức là Thuận Thánh Hoàng hậu. Trong một lần hỏi ý kiến về di ngôn của An Sinh Vương Trần Liễu, Đức Vương Ông (Hưng Đạo Vương) đã hiểu lầm ý của Ngài nên nghĩ là Ngài muốn phản nghịch mà bắt đày ra chấn thủ Vân Đồn. Nhưng ở đây, Ngài vẫn một lòng vì dân nước và lập được nhiều công trạng lớn lao.
Trong thời kỳ bình công, khen thưởng cuối năm 1288, Trần Quốc Tảng được sắc phong là Tiết độ Sứ. Từ 1288 đến khi qua đời, phần lớn thời gian ông dành cho việc trấn giữ vùng Đông Bắc này của Tổ Quốc .
Nhờ những công lao to lớn mà vua Trần Anh Tông (đồng thời cũng là con rể của Trần Quốc Tảng) , phong tước hiệu Hưng Nhượng Vương. Người đời suy tôn ngài là: Đức Ông Đệ Tam Phó Súy Đông Hải Đại Vương Trần Quốc Tảng.
Thời gian khánh tiệc Đức Thánh Nhượng Đại Vương
Ngài được thờ phụng cùng hội đồng Trần Triều tại nhiều đền thờ trên cả nước trong đó nổi bật nhất là tại đền Cửa Ông – Quảng Ninh. Khánh tiệc của ngài vào mùng 3 tháng 2 âm lịch hàng năm.
Hầu giá Đức Thánh Tam
Đức Thánh Tam được nhân dân huyền hóa, tôn sùng trở thành một vị thánh thần linh thiêng thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ công đồng Trần Triều. Khi hầu giá Đức Ông Đệ Tam Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng ngự áo khăn đai đỏ, múa cờ kiếm, cầm lình ra uy, trừ tà sát quỷ. Tuy vậy ngày nay cũng có một số thanh đồng khi hầu giá ngài thường dâng khăn đỏ, áo trắng thêu hổ phù tương tự (màu đặc trưng cho miền thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ Phủ).
Khi ông ngự đồng cũng làm các ấn phép giống với Đức Đại Vương như: lên đai thượng, rạch lưỡi ban dấu mặn, thư phù bắt quyết…
Bản văn Đức Thánh Nhượng Đại Vương
“Đời Trần thị mở mang Nam Hải
Đức Đệ Tam dòng dõi kim chi
Mỗi phen giáp mã truy tùy
Đã vu hoa khắc lại đi phạt Sầm
Phong đại vương an tâm thân chức
Lại đem câu yến dực ra bàn
Nghĩ rằng hiếu đạo chu toàn
Nào ngờ mắc phải tiếng oan ở đời
Dạ bảy tấc khó bày khúc trực
Để trời xanh vằng vặc sáng soi
Mỗi năm tình kể cùng ai
Đành rằng đem xuống tuyền đài cho cam
Bỗng nhất dạ thuyền mang ra bể
Ông thủy thần thiết kế cũng hay
Trên bãi bể có một cây
Chỉ cây khấn vái rằng nay có thần
Chợt một đám hồng vân cuộn lại
Mảnh tinh linh xuất ngoại trần gian
Cảnh vui ngày lại bàn hoàn
Trời riêng một cõi, người bàn Tam thai
Mười ba ngọn nước ngoài cửa bể
Khắp chầu vệ chèo quế mênh mông
Ví không tú dục anh chung
Thì đâu chấn được non sông ngoài này
Phép hiển linh suy tay kinh vĩ
Trụ thạch truy phụng sự lô hương
Ngàn thu miếu mạo côn hoàng
Vị thờ ở trong ngai vàng anh linh
Điều dây vàng đế đình ban sắc
Bia đá xanh vương tước thư danh
Hải tần gió nổi sóng kình
Tàu bè qua đó tấc thành kính tôn
Tiếng hiển hách xa đồn Nam Bắc
Những tà ma đạo tặc cũng kinh
Sống thời làm tướng Thiên thành
Khi mà thác xuống U Linh làm thần
Cứu những ke lương dân phải nạn
Lại những người càn sát yêu tinh
Độ cho những kẻ hữu sinh
Giải cho những kẻ bệnh tình trầm ngâm
Xin chiếu dám đan thành sau trước
Những nhà thờ giáng phúc trừ tai
Lộc danh trời có riêng ai
Xin rằng cho lấy đời đời hiển vinh.”
Dâng sớ
“A tấu sớ Thiên Đình ông lên tấu sớ Thiên Đình
Nam Tào Bắc Đẩu Chúa biên rành rành Chúa cho đôi chữ trường sinh
Chữ phú chữ quý, khang ninh thọ trường năm cờ sai trấn năm phương”
Khai quang
“Có lệnh truyền ra Thánh Vương có lệnh truyền ra
Các quan thủy bộ cùng là chư dinh nam ninh non phạt nam thành
Đánh đông dẹp bắc tung hoành mọi nơi đông thời cửa thiếu cửa đoài .
Ngự lên đồng tử cứu này nhân gian cứu đâu thời đó được an
Cấp sai binh tướng áp lai tĩnh đường
A se khai quang dung nhan thập kỳ diệu
Quang minh chiếu thập phương
Ngã tích tang cúng dàng
Kim phụng hoàng thân cận
Phật Thánh chúa thiên trung vương
Ca lăng tần già thanh từ bi mẫn chúng sinh
Cố ngã kim đỉnh lễ…
A án nhật nguyệt quang minh
Có phép ông ra có phép ông ra
Cân đai mũ mã ra uy khám đàn
Phép ông đôi má thu phình
Cổ lên khăn thượng xiên lình ra oai
Mặt hổ phù ra uy hùng hổ
Vồ đập khảo chân dẫm cầy nung
Chảo dầu sôi lửa khói bùng bùng
Đôi tay ông họa tứ tung ngũ hành
Tay ấn quyết ra uy dấu mặn
Thần phù ra cứu độ dân oan.”
Hát Dọc
“Vốn nguyên xưa đôi bên tả hữu
Đủ mọi chớ đậu can qua
Văn thời dạng nức hoàng xa
Võ thời thao lược, can qua ầm ầm
Đồng nhất tâm vận trù khuyết tửu
Dẫu trương lương hàn tín ai qua
Khâm sai đội lệnh quốc gia
Săm săm chỉ nẻo đường hoa tức thì.”
Hát sai
“Dẫn về trình tấu các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thường quân bộ hai hàng
Thiên binh vạn mã hằng hà chẳng xa
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Đức ông bây giờ xe giá anh linh
Trước là giám sát điện đình,
Sau là thu tróc tà tinh phen này
Uy gia trần thế biết tay”
Hát Phú
“Quân kéo đi đường đường chính chính
Cơ đội nào nghiêm chỉnh trước sau
Dưới thuyền, trên bộ đua nhau
Uốn lưng, lở núi lắc đầu cạn sông
Phép ngài ra hô phong hoán vũ
Quyết phen đảo vũ thu vân
Uy ra lẫm liệt như thần
Nơi xa mến đức, nơi gần khiếp uy
Trong hán đã uy nghi cũng vậy
Khen tướng tài lừng lẫy bắc đông
Bách quan hội nghị công đồng
Đừng oan người chính, chớ dung người tà
Giống yêu ma nó là quỷ quái
Ấn già là bắt tội không tha
Một là càn sát hóa tà
Hai là thủy tộc, ba là há sinh
Cứ phép binh ra hình trị tội
Chém lấy đầu bêu nổi trên sông
Tà như mấy tướng giang hùng
Bắt vào bệ ngọc ra lòng chẳng tha
Từ đấy được âu ca cổ vũ
Chẳng còn lo những lũ ác hung
Chữ rằng thánh đức chí công
Muôn dân đều được ngự trông phép mầu”
Thờ phụng
Đức Thánh Tứ và Đức Thánh Cả và Đức Thánh Phó và Đức Thánh Tam đều có bài vị thờ ở chính đền của phụ vương tại đền Kiếp Bạc (Hải Dương).
Ngoài ra Hưng Hiến Vương còn có đền thờ tại
- Đền Sơn Hải (Hoàn Kiếm, Hà Nội)
- Đền Đức Thánh Phó (Cao Bằng)
Chú thích
- Thần tích Đức Thánh Trần, Bắc Việt tương tế hội, tr.134.
- Bàng Hà: đất huyện Thanh Hà cũ nay thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng và huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
- Na Sầm: tức Na Ngạn, thuộc đất huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
- Long Nhãn: nay thuộc Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc.
- Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Bản in Nội các quan bản, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2003, tr.95.